Trong cảnh ngộ khó khăn ấy, Đại Tuệ trúng liền hai mũi tiễn vào đùi, đành phải thối lui băng bó và đổi vũ khí. Trường côn của đám đệ tử nặng chỉ bằng nửa thiền trượng sẽ giúp ông chống đỡ ám khí hữu hiệu hơn.
May mà những mũi tiễn kiếm ấy không tẩm độc, Đại Tuệ nhanh chóng trở lại với Bá Nghiêm. Ông dùng toàn lực múa tít cây trường côn bằng gỗ, ngoài bọc thép mỏng, đánh văng ám khí và cố sức đẩy lùi bang chủ Bích Huyết bang.
Nhưng Trịnh Bá Nghiêm cũng là tay kiệt xuất, kiên cường chống cự bằng pho "Hoàng Long thương pháp" mà gã đã khổ luyện hai mươi năm. Gã được ưu thế là có thể đảo bộ, chuyển tấn rất ung dung, trong lúc Đại Tuệ thì chết dí trong một chỗ và lòng thấp thỏm đất lở bất ngờ. Chẳng phải bậc cao tăng này sợ chết, ông chỉ lo không cứu được phương trượng sư huynh và mấy trăm người khác nữa. Do đó, Đại Tuệ hoàn toàn bị cầm chân và số phận những kẻ bị vây hãm trong kia khó mà thay đổi.
Đại Tuệ đau lòng khôn xiết, phẫn uất đánh mấy đòn lôi giáng, đẩy lùi Bá Nghiêm vài bước. Nhưng phe địch nhất tề phóng liền mấy chục ngọn tiễn kiếm, khiến ông phải bỏ ý định tràn lên, múa trường côn chống đỡ. Và Bá Nghiêm đã kịp quay về vị trí cũ. Đại Giác Thiền Sư lại trúng thêm một mũi tiễn kiếm vào bắp chân tả, khó mà địch lại Trịnh Bá Nghiêm. Trong lúc ông sắp tuyệt vọng thì cứu tinh xuất hiện, đánh vào sau lưng kẻ địch.
Lực lượng ấy đông độ bốn mươi, võ phục đủ màu song đều bằng gấm lục tốt, áo cừu ngắn cũng thuộc loại đắt tiền. Trong võ lâm làm gì có bang hội nào chơi sang đến thế!
Họ nhất tề rút kiếm, lột nón tre ở tay tả xông vào tấn công. Dương Tố Vy ngờ ngợ đoán ra đối phương là người của Xoa Lạp Cốc. Nàng ta lại còn điên đầu hơn bọn tơi nón kia lại được chỉ huy bởi Thiết Đảm Hồng Nhan và gã hắc y bịt mặt. Làm sao Dương Tố Vy có thể ngờ đến việc những đệ tử Xoa Lạp Cốc trở thành gia đinh của Quách gia trang và đến đây để bảo vệ Tử Khuê.
Kiếm là sở đoản của Bắc Thiên Tôn song lại là sở trường của lão đạo sĩ núi La Sơn. Do đó, kiếm thuật của Tống Thụy hơn Tố Vy một bậc. Thép chạm thép gay gắt và ả họ Dương khẽ rú lên, chân lùi mau bốn bước. Chiêu "Vương Mẫu Khai Liêm" của Tống Thụy đã rọc một đường từ ngực đến thắt lưng của kẻ địch. Tuy vết cắt không sâu nhưng lại khiến tấm võ y diêm dúa màu hồng phấn và yếm đào của Tố Vy bị rách tang hoang, ngọc nhũ phơi bày lồ lộ.
Tuy chẳng phải gái tơ, đông đào phong kính, nhưng Dương Tố Vy cũng không quen với việc thoát y trước mặt đám đông. Ả vừa giận vừa thẹn, theo bản năng của nữ nhân mà bối rối đưa tay trái lên cố khép hai mảnh vãi rách để che ngực. Khổ thay, Thiết Đảm Hồng Nhan cứ xông tới ra đòn như vũ bão, nên Tố Vy đành phải để mặt cặp tuyết lê đong đưa, nhún nhẩy, chú tâm đối phó.
Cảnh tượng hấp dẫn ấy đã như thỏi nam châm thu hút những cặp mắt yếu đuối của bọn đàn ông. Và ngay lập tực có hai gã kiếm thuẫn nhanh nhẫu đến hỗ trợ cho Thiết Đảm Hồng Nhan, dẫu nàng ta đang thắng thế. Ánh mắt họ dán chặt vào cặp đào to mơn mỡn, mặt đần ra bởi nụ cười ngớ ngẩn đầy thèm khát.
Tất nhiên, họ chẳng muốn sát hạt Dương Tố Vy, chỉ mong cuộc chiến kéo dài để nhìn no mắt. Là dân tộc Thổ, tính tình mộc mạc, kém đường xảo trá nên không đạo đức giả như người Hán. Khi thích thú, họ nhìn ngay chứ không thèm liếc trộm hoặc nhìn lén.
Chỉ lát sau, đã có hai gã hám gái nữa nhập cuộc, chúng nuốt nước bọt ừng ực đua nhau vang lên cốt để Thiết Đảm Hồng Nhan chán nản, phì cười, nhường trận địa cho bọn đàn ông cô đơn, thiếu thốn kia. Nàng biết rằng, Quách gia trang chẳng đủ tỳ nữ mà gả cho bốn mươi gã hàng binh Xoa Lạp Cốc này, để chúng ở lại Hứa Xương phò tá Tử Khuê.
Chính Tử Khuê cũng không biết đám thủ hạ hiện diện ở Độc Nha sơn. Quách trang chủ lo cho ái tử nên đã sai Dịch Quan San dẫn bọn kiếm thủ đuổi theo.
Sau khi dùng "Diêm vương Quỷ kỳ" để gây cuộc tàn sát giữa hai phe tà ma. Tử Khuê đã đưa Thiết Đảm Hồng Nhan về động đá, nơi Trác Thanh Chân đang chờ đợi. Họ cùng nhau bàn bạc kế hoạch đoạt lại cờ báu, Tử Khuê định sẽ đích thân ra tay, song Trác Thanh Chân đã giành lấy nhiệm vụ ấy. Nàng ta vui vẻ bảo:
- Tiểu muội đánh nhau không giỏi bằng, nhưng nghề khinh công móc túi thì dám xưng sư tỷ của đại ca. Hơn nữa, việc tiểu muội đoạt cờ rồi đào tẩu dưới bộ dạng của kẻ cướp thánh chỉ, sẽ khiến đối phương bị rối trí. Dẫu sau này họ khám phá ra Hàn Thiếu Lăng là ai thì Quách gia trang cũng không hề bị liên lụy.
Thiết Đảm Hồng Nhan rấ khâm phục đầu óc nhìn xa trông rộng, tính toán chu toàn của Trác Thanh Chân. Nàng buột miệng khen:
- Trác đại thư quả là sáng suốt, tiểu muội vô cùng khâm phục.
Thanh Chân nhanh nhẩu tự giới thiệu mình là đệ tam phu nhân của Tử Khuê nên Tống Thụy bắt buộc phải gọi nàng ta là chị. Nàng hơi buồn khi biết Tử Khuê đã có ba vợ, song không chán ghét Thanh Chân. Nhờ cô ả họ Trác quái dị này mà Thiết Đảm Hồng Nhan ngộ thức ra rằng mình phải chủ động dành lấy duyên nợ.
Tử Khuê là một nam nhân đôn hậu, ngốc nghếch và nhút nhát. Chờ gã mở miệng cầu hôn thì e rằng đầu cả hai đã bạc.
Khi Thanh Chân thành công rời khỏi Độc Nha sơn, Tử Khuê và Tống Thụy dự định sẽ ám sát Quân Sơn Chân Nhân rồi đào tẩu. Nào ngờ, lòng dạ Âu Dương Mẫn lại thâm độc phi thường, nghĩ ra kế liên thủ với Nam - Bắc Thiên Tôn để bắt sống hội đồng võ lâm mà đổi lấy cờ. Dẫu Tử Khuê có xuất đầu lộ diện, tự nhận mình là Hàn Thiếu Lăng thì bọn tà ma cũng không bỏ cuộc vì đã leo lên lưng cọp, gây hấn cùng sáu phái. Chàng đang định liều chết một phen thì gã anh vợ Dịch Quan San xuất hiện. Đồng thời viện binh của Thiếu Lâm Tự cũng đến nơi. Thế là Vô Tướng Quỷ Hồ có ngay một kế sách lưỡng toàn.
Giờ đây, trong lúc Thiết Đảm Hồng Nhan hý lộng Dương Tố Vy ở vòng ngoài thì Tử Khuê đánh thốc vào phòng tuyến địch, cố tìm đến chỗ của Trịnh Bá Nghiêm. Chàng cố loại trừ được gã chiếm lấy vị trí hiểm yếu này thì quân tiếp viện mới vào được Độc Nha sơn mà cứu người.
Lòng nóng như lửa đốt, Tử Khuê xuất thủ vô cùng quyết liệt, tàn nhẫn. Kiếm quang chớp lên loang loáng và bọn đệ tử Phi Kiếm Hội thi nhau từ trần một cách mau lẹ, không kèn không trống. Bản lĩnh kém cõi nên chúng không thể chống đỡ đường gươm thần tốc vả ảo diệu vô song của một kẻ đã bước qua ngưỡng cửa kiếm đạo.
Bản năng sinh tồn đã giúp những tên khác ngửi thấy mùi chết chóc tỏa ra từ cái gã hắc y bịt mặt kia. Chúng khôn ngoan dạt ra, lịch sự nhường bước. Thậm chí có gã sợ hãi đến nổi đã cố mỉm cười thân thiện với vị hung thần. Đứng trước cái chết, đôi khi người ta có những hành vi khó hiểu.
Nhưng chính những nụ cười ngớ ngẩn trên khuôn mặt đầy vẻ khiếp sợ ấy lại khiến lòng Tử Khuê chùng xuống. Té ra, đằng sau cái vỏ võ sĩ, kiếm thủ là một con người chân thực, luôn thiết tha được sống còn. Họ chỉ là những người tầm thường nghèo khổ, không tham vọng lớn, chỉ vì cơm áo của thê nhi mà dấn thân vào chốn giang hồ sát máu và chết bởi dã tâm của kẻ phát lương.
Niềm bất nhẫn trong lòng hóa thành phẫn hận, Tử Khuê lướt mau qua trận địa và không giết ai nữa. Có mấy tên ngốc dại dộ cử kiếm ngăn chận thì chỉ chống đỡ qua loa.
Cuối cùng, mục tiêu cũng đã xuất hiện trước mắt. Tử Khuê gằn giọng báo tử:
- Bá Nghiêm! Hàn mỗ đến lấy mạng ngươi đây!
Dứt lời chàng nhảy xổ đến xuất chiêu "Phù Sinh Nhược Mộng", kiếm ảnh mêng mang mở rộng, chụp lấy thân hình gã họ Trịnh. Trịnh Bá Nghiêm cảm nhận được ngay luồng sát khí lạnh lẽo, kinh hoàng múa kim thương, thân hình xoay tít cố bảo vệ mạng sống trong cảnh lưỡng đầu thọ địch. Gã đang phải đối phó với Đại Tuệ Thiền Sư, nay có thêm gã chết tiệt Hàn Thiếu Lăng thì khó mà thoát chết.
Bá Nghiêm đặt hết hy vọng vào chiêu "Luân Thương Kháng Vũ" này. Nam Thiên Tôn đã từng khẳng định đây là chiêu thức kỳ tuyệt nhất thiên hạ, dẫu mưa to cũng không làm ướt áo thì đao kiếm chẳng thể xâm nhập. Cây thương thép nặng ba chục cân quây vù vù, thương ảnh trùng điệp, dệt lưới kính như bưng. Và kình lực của nó cực kỳ mãnh liệt, khả dĩ đẩy lùi mọi đòn công kích.
Nhưng Trịnh Bá Nghiêm chẳng phải là Nam Thiên Tôn, có công lực hoa giáp. Trong khi Đại Tuệ Thiền Sư lại muốn trút hết sân si lên đầu kẻ đã cầm chân mình từ nãy giờ. Vị Thủ tòa Đạt Ma Viện dồn hết mười thành hỏa hầu ra đôi cánh tay rắn chắc, múa côn vào đánh chiêu "Di Sơn Khai Lộ". Nghe tên cũng biết chiêu này cương mãnh phi thường, khí thế dời non lấp biển.
Cây trường côn của thiền sư liên tiếp chạm phải màn thương dày đặc quanh thân Trịnh Bá Nghiêm. Tuy không phá thủng được song cũng khiến họ Trịnh đổ máu vì đường thương này.
Tử Khuê thừa thế thi thố xuất kiếm chập chờn vài lượt là khóa được mũi kim thương. Và trông chớp mắt chàng ập vào, hướng kiếm đâm thủng ngực họ Trịnh.
Bá Nghiêm rên lên thảm khốc vì trúng thêm một côn như trời giáng của Đại Tuệ Thiền Sư. Thân thể của gã văng xa hơn trượng, rơi thẳng xuống vực sâu. Dường như lòng trời thương tiếc cho bậc anh tài đoản mệnh, làm tự tuyệt nhà họ Trịnh, nên bỗng nhiên tuyết đầu Đông rơi lất phất và mỗi lúc một dày, mù mịt không gian.
Lúc này, toán quân Phi Kiếm Hội cũng đã tan tác, nhường vai trò trấn ải cho bọn thủ hạ của Tử Khuê. Nghe nói bang chủ Chiết Mai bang thoát chết, bỏ chạy bởi chẳng người đàn ông chân chính nào lại nỡ giết một nữ nhân đang phơi bày mộ ngực mỹ miều, gợi cảm.
Chỉ trong khoảnh khắc, bốn trăm tăng lữ Thiếu Lâm đã vào hết Độc Nha sơn, theo Đại Tuệ Thiền Sư đi cứu viện phương trượng chưởng môn. Bọn Tử Khuê cũng tham gia vì ở lại giữ cửa ra là một hành động dại dột vô ích, khi Âu Dương Mẫn vẫn còn một trái "Bạt Sơn cầu". Vì thứ hung khí đáng sợ ấy mà Tử Khuê phải dặn dò Đại Tuệ phân táng mỏng quần tăng chứ không đi thành đội ngũ đông người.
Sự xuất hiện của đám viện binh đông đảo võ nghệ cao cường đã sớm thay đổi cục diện. Song Tôn cùng Âu Dương Mẫn càng hoang mang hơn khi nghe Dương Tố Vy chạy đến báo cáo rằng gả hán tử Hàn Thiếu Lăng chưa hề rời khỏi Độc Nha sơn và có mặt hạ sát Trịnh Bá Nghiêm.
Âu Dương Mẫn thấy rõ diện mục kẻ cướp cờ, đúng là cái gã đoạt Thánh chỉ. Vậy phải chăng Hàn Thiếu Lăng vô can ? Lão không biết rằng Trác Thanh Chân đã cẩn thận mang chiếc mặt nạ mà Tử Khuê dùng lúc tiến vào Độc Nha sơn. Nàng đã chẳng hủy đi hai vật tinh xảo ấy theo lời dặn của Tử Khuê. Tuy nhiên, bọn tà ma chỉ tạm thời bị lừa vì kế hoạch của Tử Khuê có một sơ hở rất lớn. Đó là vì sao Hàn Thiếu Lăng lại phải bịt mặt ? Chàng là người trung hậu, kém phần lão luyện nên không thể chu đáo hơn được nữa. May thay, Dịch Quan San đã kịp thời sữa chữa sai sót chết người ấy. Gã đã mau chóng biến Tử Khuê thành Cầu Nhiêm Đại Hiệp, với bộ râu rậm lừng danh.
Giờ đây, Tử Khuê lột khăn chường bộ mặt ấy ra xông vào tấn công Quân Sơn Chân Nhân Đường Mai Giãn. Lão họ Đường đang là đối thủ của bang chủ Cái Bang Thất Bổng Cái, Thạch Kính Tường rất căm hận kẻ đã hại bạn mình là Cửu Hoa Thánh Y, nên chiến đấu như hổ dữ, bản lĩnh của ông kém họ Đường một bậc nên bị hạ phong, trúng vài mũi kiếm máu loang đỏ áo. Nhưng thương tích không nặng vì lão ăn mày vẫn kiên cường cầm cự, chờ cơ hội báo thù cho bạn. Cái Bang vốn là một bang hội chứ không phải môn phái. Cho nên pho võ học truyền tông "đả cẩu bổng pháp" chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không xuất sắc lắm. Bổng là gậy dài trên dưới ba xích, vật thiết thân của bọn khất cái. Ăn mày mà không chống gậy thì ra thể thống gì nữa.
Tục ngữ có câu "chó cắn rách áo" nghĩa là lũ cẩu chẳng ưa gì những người nghèo khổ. Nhưng tại sao lại có được tính chó má của loài người cơ chứ? Cho nên, công dụng đầu tiên của gậy ăn mày là để đối phó với loài chó, thành danh "đả cẩu bổng".
Trong Cái bang, bang chủ và các trưởng lão, chức sắc không phải đi xin ăn. Gậy của họ chẳng đánh chó mà đánh người, bảo vệ quyền lợi của đệ tử, nên làm bằng thép. Riêng cây "đả cẩu bổng" của Thạch bang chủ thì được trạm trổ rất công phu và có đầu nhọn hoắt.
Trước khi gia nhập Cái bang, ở tuổi ba mươi, Thạch Kính Tường là một kiếm thủ. Và ông đem những đặc tính ưu việt của kiếm pháp bổ sung cho pho "đả cẩu bổng pháp". Nhờ vậy, tổ học thêm phần lợi hại, củng cố địa vị Cái bang trên chốn giang hồ.
Trừ "Địa Đường đao pháp", hầu hết võ công Trung Nguyên đều nhắm vào thượng hàng là chủ yếu. Nhưng vì chó thấp hơn người nên "đả cẩu bổng pháp" có rất nhiều đòn tấn công hạ bàn, từ rốn trở xuống, lối đánh này rất khó chịu.
Do đó, dù bản lĩnh cao cường hơn mà Quân Sơn Chân Nhân không thể kết liễu được Thạch bang chủ. Nếu lão giết được họ Thạch thì hạ thể cũng khó vẹn toàn trước những thức đâm hiểm ác, quái dị. Hơn nữa, kế hoạch của phe lão là bắt sống hội đồng võ lâm chứ không sát hại. Quân Sơn Chân Nhân kiên nhẫn chờ đợi Thất Bổng Cái sơ suất vì kiệt sức, vì mất máu, lão vẫn vẹn toàn trong khi Thạch bang chủ đã trúng ba vết thương nhẹ.
Tuy là sư đệ của Bắc Thiên Tôn song Đường Mai Giãn lại sở trường kiếm thuật chứ không phải kích pháp. Lão hơi nhỏ con nên không thích hợp với loại vũ khí dài và nặng ấy.
Niên kỷ gần tám mươi, Chân Nhân có nhiều chục năm tu vị. Đường gươm của lão trầm ổn, nhanh nhẹn và kín đáo phi thường, cho nên y phục vẫn khô ráo dù tuyết rơi như mưa.
Nhưng tình trạng ung dung thư thái không còn nữa khi gã rậm rậu Hàn Thiếu Lăng xuất hiện. Họ Hàn chẳng nói chẳng rằng vung kiếm hợp lực cùng Thất Bổng Cái. Đã nghe danh Cầu Nhiệm Đại Hiệp, kẻ từng đả thương Minh chủ Âu Dương Mẫn, Đường Mai Giãn đành thoái hậu, tránh cảnh bị giáp công.
Thất Bổng Cái không đuổi theo nhưng Hàn Thiếu Lăng tiếp tục bước tới, quyết không tha cho kẻ địch. Họ Hà, tức Tử Khuê nóng lòng báo phục cho sư thúc nên đã xuất chiêu "Hồng Thủy Thao Thiên" trong "Oán Thiên kiếm pháp"
Hàng ngàn thức kiếm thần tốc tạo thành những đợt sóng dữ, cuồn cuộn xô về phía đối phương, kiếm kình quyện lấy ngàn vạn hoa tuyết nên kiếm ảnh có màu trắng lạnh lùng, tang tóc. Khí thế của chiêu kiếm oai mãnh chẳng khác gì trận Đại Hồng Thủy đang tràn dậy, tràn ngập cả đất trời.
Tuy nhiên, Quân Sơn Chân Nhân công lực thông trầm, hơn gã tuổi trẻ vài bậc nên không hề sợ hãi, dùng chiêu thức "Động Đình thu vũ" mà đối phó. Tuyệt chiêu này ảo diệu vô song, công thủ vẹn toàn, kết tinh của mấy chục năm nghiên cứu, rèn luyện.
Quả nhiên, Đường Mai Giãn chống đỡ, hóa giải được gần hết đòn công của đối thủ. Và sau hơn trăm tiếng thép tinh tang, lão còn phát hiện sơ hở chết người, mừng rỡ thọc một kiếm nhanh như chớp vào ngực trái Thiếu Lăng.
Đòn này tuyệt đối không né tránh được, trừ phi nạn nhân đã biết trước. Khổ thay, bản chất của "Oán Thiên kiếm pháp" là như thế. Nó xảo trá và hiểm độc chẳng khác gì lão trời già. Lão ban cho con người hạnh phúc rồi đột nhiên lấy đi hết tất cả.
Năm xưa, Trương Mỹ Thành võ công xuất chúng, tài sản cự vạn, suốt đời làm việc thiện, được giới giang hồ tưng xung là Tứ Xuyên Kiếm Phật, thanh danh lẫy lừng thiên hạ. Nhưng hỡi ôi, đến tuổi lục tuần thì vị đại thiện nhân mất sạch phụ mẫu, huynh đệ, thê nhi, cháu chắt, tổng cộng mười tám người vì bệnh đậu mùa.
Trương lão sống sót mà như đã chết. Ông đau lòng phát điên lên được và vô cùng căm hận trời xanh. Ông bỏ nhà lên ngọn núi cao nhất của Vũ Lăng Sơn mà ẩn cư. Ngày ngày ngửa mặt chửi rủa Hoàng Thiên và sáng tạo pho "Oán Thiên kiếm pháp"
Giờ đây, Đường Mai Giãn trở thành nạn nhân kế tiếp của lòng thù hận ấy. Lão tưởng mình đã có được cơ hội ngàn vàng, nào ngờ chỉ là bẫy rập. Hàn Thiếu Lăng khẽ lách ra mé phải để tránh đòn và lặng lẽ đâm vào huyệt Cự Khuyết trên bụng kẻ địch. Cự Khuyết thuộc Mạch Nhâm, thẳng trên rốn bảy thốn, là huyệt mộ của tâm, nên khi bị tổn thương nạn nhân khó tránh tử vong.
Nhưng sự đời biến ảo vô thường, tựa phong vân bất trắc, mũi kiếm của Tử Khuê đã chạm phải một vật gì đó rất cứng rắn, lệch sang bên trái, đâm thủng người đối phương, nên vết thương không sâu đến nội tạng vì chạm phải xương sườn.
Cảm giác đau đớn bởi gãy xương vô cùng khó chịu nên Quân Sơn Chân Nhân chẳng còn chút dũng khí nào nữa, tung mình chuồn thẳng. Lão vừa chạy vừa thầm cảm ơn cái mãnh kính chiếu yêu bằng đồng xanh đang nằm trước ngực. Không thì mạng lão đã ra ma.
Chưa năm nào lại có nhiều tuyết đầu mùa như năm nay. Mọi năm tuyết đầu Đông rơi nhè nhẹ, điểm lác đác trên cây cỏ, là cảnh đẹp mà tao nhân mặc khách ưa thích. Nhưng hôm nay cứ như một trận bão tuyết tháng chạp đi ngang rặng Tung Sơn này vậy. Quân Sơn Chân Nhân lao đi giữa làn mưa tuyết mịt mùng, hy vọng gã chết tiệt họ Lăng sẽ lạc dấu. Nhưng Tử Khuê sở hữu tuyệt học "Thao Quang thân pháp", lại đang tuổi thanh xuân, cơ bắp cuồn cuộn, chạy nhanh như vó ngựa. Chàng đã bắt kịp Đường Mai Giãn khi lão vượt được nữa con đường xuyên vực.
Gió bấc ào ào thổi, che giấu tiếng chân người, tiếng y phục lất phất nên Đường Mai Giãn không phát hiện kẻ thù cách mình chỉ hai trượng. Và Tử Khuê chẳng bỏ lỡ cơ hội tốt, thi triển tuyệt kỹ "long tu xạ nguyệt".
Thanh trường kiếm rời tay chàng, bay đi với tốc độ của mũi tên rời dây cung. Thủ pháp này tương tự pháp phóng ám khí nhưng cao siêu, phức tạp hơn nhiều. Lý do là vì trường kiếm nặng nề, và phải bay theo đường thẳng băng tựa đường tên chứ kô lộn nhiều vòng như tiễn kiếm, tiểu đao. Nếu không tiếng động nó tạo ra sẽ rất lớn, mất yếu tố bất ngờ, ám muội.
Thực ra, tuyệt kỹ này ít hiệu quả khi song phương đối diện. Trường kiếm quá cồng kềnh, chẳng phải thứ dùng làm ám khí. Và nếu đánh lén sau lưng thì cũng không bằng tiểu đao. Như Vu Mộc Chân Nhân vẫn bắt Tử Khuê phải luyện thủ pháp "long tu xạ nguyệt". Vì nó chính là bậc thượng thừa của mọi phép phóng ám khí trên đời.
Tử Khuê đã quyết định đúng đắn khi phóng kiếm, gió rít vù vù đã làm mờ thính lực của đối phương và mũi kiếm xuyên thủng lưng Đường lão quỷ.
Tuy chân khí bế tắc, tứ chi bủn rủn vì đòn trí mạng, song do đà phóng tới mà Quân Sơn Chân Nhân vẫn lảo đảo thêm một ít bước mới gục xuống. Đường rất hẹp nên suýt nữa xác lão rơi xuống vực, nếu không vướng vào những đoạn cành cây cắm dính trên đường. Lão nằm ngửa, vắt vẻo, chênh vênh, mắt trợn trừng bất động.
Tử Khuê sợ mất bảo vật của sư môn, vội bước đến giữ chân và thò tay vào ngực áo lão mò tìm mảnh kính chiếu yêu "Bát Quái Đồng Kính"
Chàng vẫn chỉ là gã trai non nớt, thiếu kinh nghiệm giang hồ, nên đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Đối với một cao thủ có mấy chục năm tu vị thì chỉ chết ngay khi vỡ tim hay đầu lìa khỏi cổ. Nay Quân Sơn Chân Nhân bị trường kiếm đâm xuyên qua phổi nhưng tim vẫn nguyên vẹn. Tuy sắp chết nhưng trong phút hồi dương lão vẫn huy động chút sức lực tàn vỗ vào ngực Tử Khuê, đẩy chàng văng ngược về sau, rơi xuống phần vực thẳm bên kia đường. Lực phản chấn cũng làm trốc gốc mấy đoạn cành cây mà xác Quân Sơn Chân Nhân đang nương tựa, nên lão cũng cùng số phận với Tử Khuê. Bão tuyết đã che mờ cảnh vật, chẳng ai chứng kiến cảnh "đồng ư quy tận" này.
Đường lão quỷ chết là cái chắc vì vết kiếm thương nghiêm trọng, dù có rơi xuống vực hay không. Nhưng Tử Khuê thì còn đầy đủ chân khí và hoàn toàn tỉnh táo. Do bản năng sinh tồn, Tử Khuê cào cấu lớp đất đá để làm giảm đà rơi. May thay, hai bàn tay chàng mang "Ngư giáp miệt" bền chắc phi thường, nên các ngón tay có thể cắm sâu vào đất và không bị tróc thịt., gãy xương. Hai là, con đường xuyên vực Độc Nha sơn chẳng phải là một bức tường dựng đứng mà là một phay đất dạng lưỡi dao, trên mỏng dưới dày, có độ dốc. Nếu chân đế không rộng thì con đường đã sụp đổ từ lâu rồi.
Đà rơi quá mạnh nên Tử Khuê không sao trụ lại được. Bàn tay chàng chỉ làm cho sỏi đá, bùn đất bị bóc ra từng mãnh và thân hình chàng lại tiếp tục lăn lông lốc. Tuy nhiên, những nỗ lực ấy cũng sẽ giúp chàng toàn mạng, thoát cảnh thịt nát xương tan.
Song Tử Khuê lại sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu, luôn gặp xui xẻo. Lúc xuống đến chân dốc, đầu va mạnh vào một tảng đá lớn và chàng lập tức hôn mê.
Mãi trưa hôm sau Tử Khuê mới hồi tỉnh. Tuyết vẫn lất phất rơi xuống vực, phủ đầy trên cơ thể chàng. Nằm bất động trong tuyết quá lâu, cơ thể Tử Khuê hầu như đông cứng lại. Chàng cố vận khí và cử động tứ chi song chỉ hoài công, cái lạnh thấu xương đã xăm chiếm hoàn toàn làm kinh mạch bế tắc, máu huyết sắp ngừng chảy.
Biết mình khó thoát chết, Tử Khuê vô cùng sợ hãi, buồn rầu. Nghĩ đến người thân, chàng đau lòng bật khóc.
Chết từ từ là cái chết đáng sợ nhất. Người ta có quá nhiều thời gian để khiếp sợ và tiếc nuối quá khứ. "Vạn cổ tử vi nan" dẫu là bậc anh hùng cái thể cũng chỉ có thể gượng cười chứ lòng thì buồn vô hạn. Họa chăng là những bậc thiền sư giác ngộ, những chân nhân đắc đạo, tin vào thế giới bên kia, lằn ranh sống chết.
Nhưng Tử Khuê không phải là kẻ tu hành, chàng còn rất trẻ nên khát sống vá yêu, biết mất cuộc sống trần tục này, nơi có những người chàng dấu ái. Hình ảnh của họ hiện ra với bao triều mến khiến Tử Khuê đau đớn khôn xiết. Chàng cố mấp máy đôi môi băng giá gọi tên từng người yêu dấu. Và người cuối cùng chàng nhớ đến là vị nghĩa ca họ Lỗ, một hồn ma bóng quế.
Song chính Lỗ phán quan lại làm bừng lên hy vọng sống sót trong lòng Tử Khuê. Chỉ mình lão có đủ khả năng giúp đỡ chàng trong cảnh tuyệt vọng này. Tử Khuê phấn khởi, tập trung tàn lực, thều thào thành tiếng:
- Lỗ đại ca … Lỗ đại ca …
Chàng gọi mãi những tiếng kêu cứu rời rạc, thê lương ấy và chết liệm dần. Khi đã đặt một chân qua ngưỡng cửa "Quỷ Môn Quan", Tử Khuê mơ màng nghe tiếng ai đó than thở.