Năm nay tuyết rơi muộn song trời vẫn lạnh căm căm, cây cỏ tiêu điều xơ xác, ánh dương nhạt nhoà dù là đang giờ Ngọ.
Võ Đương Thần Kiếm cởi chiếc áo khinh cừu trắng muốt trao cho một đồng môn. Là đệ tử tục gia nên Mộ Duy Lộ không mặc đạo bào. Bộ võ phục màu nguyệt bạch, bằng gấm Hàng Châu thượng hạng, mép vạt thêu hoa văn chỉ tím ôm sát lấy thân hình cường tráng của gã và làm nổi bật lên những cơ bắp cuồn cuộn.
Tử Khuê không có áo cừu để cởi vì đã quen với cái lạnh thấu xương của vùng núi non Tứ Xuyên. Chàng đã nhường áo lông cừu của mình cho sư phụ. Giờ đây, trong tấm đạo bào thùng thình bằng vải xấu, trông chàng chằng chút oai phong, kém xa đối thủ.
Đứng trước một cao thủ thành danh và cao lớn hơn mình, trong lòng Tử Khuê không khỏi có chút lo lắng, sợ hãi. Nhất là khi bọn đệ tử Võ Đương cứ ngoác miệng cổ vũ cho Mộ Duy Lộ. Nhưng bỗng Tử Khuê phát hiện trong hàng ngũ đối phương có một cặp mắt nhung huyền đang nhìn mình một vẻ khuyến khích, mong đợi.
Đấy là một đạo cô tuổi độ đôi tám, đôi chín, đầu mũ vải đen, chứng tỏ đã xuất gia chứ không phải tục gia đệ tử.
Nhan sắc của nàng ta không rực rỡ, sắc sảo song ngũ quan đoan chính, trán cao thanh thoát .Và ánh mắt này rất sinh động, tựa như biết cười, biểu lộ một tính cách tinh minh, thông tuệ.
Khi nhận ra Tử Khuê nhìn mình, vị tiểu đạo cô kia đã nở nụ cười ấm áp rồi nháy mắt vời chàng.
Tử Khuê ngây ngất và nghe dũng khí hừng hực lan toả khắp châu thân. Chàng không thể để mất mặt với kẻ đã ngưỡng mộ mình.
Thực ra, Tử Khuê không phải kẻ hèn nhát. Chẳng qua suốt một thời thơ ấu, chàng luôn gặp tai họa và luôn được mẫu thân dặn dò cẩn trọng, nên đởm lược tiêu tan. Nay có người này đỡ tinh thần, Tử Khuê vượt qua được sự e dè thiếu tự tin, bình thản bước vào cuộc chiến.
Chàng rút kiếm ra, nghiêm trang dựng trước mặt. Chuôi kiếm bằng đồng đã lạnh tanh vì gió đông làm tê cả lớp da lòng bàn tay hữu. Nhưng chính hơi thép lạnh đã biến Tử Khuê thành một người khác.
Tổng cộng, chàng đã có mười hai năm khổ luyện kiếm thuật, nhờ ngộ tính cao mà đạt đến trình độ thượng thừa, tâm và kiếm hòa làm một. Giờ đây, lòng chàng phẳng lặng như gương, không chút bụi tạp niệm và tất nhiên chẳng còn cảm giác sợ hãi.
Hơn nữa, thanh trường kiếm này vốn là vũ khí tuỳ thân của mẫu thân chàng năm xưa. Trước khi rời bỏ kiếp giang hồ, Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam đã đến Vũ Lương sơn thăm Vu Mộc Chân Nhân và gởi bảo kiếm.
Tử Khuê kính yêu từ mẫu nhất trên đời và hãnh diện về quá khứ oai hùng của bà như bất cứ đứa trẻ nào khác. Kỹ nương chỉ tiêu diệt kẻ ác và chưa hề giết lầm. Có điều là thủ đoạn của bà quá quyết liệt, không phù hợp với đức hiều sinh của trời đất.
Giờ đây, Tử Khuê không thể làm nhục lưỡi gươm hào hùng của mẫu thân. Có thể là do chưa hề gặp cường địch nên Băng Tâm Ma Nữ luôn chiến thắng. Tử Khuê là người học đạo tất biết về thịnh suy tiến thoái, không mong trở thành vô địch, song ít nhất là phải thấng ở trận đấu đầu đời.
Hữu xạ tự nhiên hương. Nhưng bản lãnh của người kiếm sĩ cũng tựa như hương thơm kín đáo của một loài hoa lạ, chỉ có những cái mũi tinh tế mới nhận ra được.
Năm vị chưởng môn nhân ngạc nhiên trước khí thế bất phàm của chàng kiếm thủ trẻ măng, bèn quay lại nhìn Cửu Hoa Thánh Y với vẻ nghi ngờ.
Thất Bổng Cái vốn là người thẳng thắn, lên tiếng hỏi ngay:
- Này Cổ Chân Nhân! Gã tiểu tử Vu Diệp kia là học trò của bậc kỳ nhân nào mà lại có bản lĩnh kiếm thuật cao siêu như thế. Và phải chăng ông định mượn tay y để giết Mộ Duy Lộ?
Cửu Hoa Chân Nhân nghiêng người thì thầm vào tai người bạn vong niên, nghe xong, Thất Bổng Cái tái mặt than:
- Chẳng lẽ có việc ấy sao?
Và Bang Chủ Cái Bang vội đi rỉ tai bốn vị chưởng môn còn lại, ai nấy đều phiền muộn lo lắng.
Lúc này, Tử Khuê đã xuất chiêu, theo lời mời ngạo nghễ của Võ Đương Thần Kiếm. Chàng nhỏ tuổi hơn nên có quyền ra tay trước.
Tử Khuê không biết mình đã được ân sư truyền cho mười tám năm tu vi, tổng cộng tròm trèm ba chục năm công lực, nên hơn hẳn đối phương. Bởi vậy, Tử Khuê sợ thua thiệt nên đã dồn hết sức vào chiêu "Thanh Long động nguyệt".
Mộ Duy Lộ cũng là kiếm thủ tài ba nên lập tức đề cao cảnh giác khi thấy trường kiếm của đối phương hoá thành những chiếc mống bạc và phát ra những âm thanh vun vút, rợn người. Những hiện tượng ấy chứng tỏ Vu Diệp có công lực cực kỳ thâm hậu và đường gươm nhanh tựa sao sa. Chỉ có bậc kiếm sĩ thượng thừa mới tạo ra được màn kiếm ảnh, không còn thấy thân kiếm đâu nữa.
Mộ Duy Lộ càng bội phần khiếp đảm khi những chiếc mống màu bạc kia ập đến nhanh hơn gió. Nghĩa là khinh công của Vu Diệp cũng thuộc hang quán thế.
Mộ Duy Lộ nghiến răng xuất chiêu "Thanh tùng nghiêng vũ", công thủ vẹn toàn, một trong những chiêu lợi hại nhất của Võ Đương kiếm pháp. Bảo kiếm trên tay gã dệt nên một màn thép dày đặc và tua tủa những mũi thép nhọn hoắt, tựa như tàn lá thông sum suê, rậm rạp đang chào đón trận mưa xuân. Núi Võ Đương trồng rất nhiều cây tùng nên Trương Chân Nhân đã dùng tên của loài cây ấy đặt cho vài chiêu kiếm.
Song phương chạm mặt, tiếng thép ngân vang, lúc thanh tao, khi chát chúa, nối nhau không dứt. Khách quan chiến có thể thấy rõ là chín đạo kiếm quang như móng rồng của Vũ Diệp đã bao trùm lấy chiếc tán thép xanh biếc quanh người Mộ Duy Lộ.
Những chiếc mống bạc ấy đảo lộn trong không gian, liên tục vươn lên mục tiêu hoặc lượn lờ chẳng khác gì rồng thiêng giữa trăng.
Cảnh tượng này vô cùng ngoạn mục làm say đắm người xem, song Mộ Duy Lộ thì đang sợ đến toát mồ hôi hột. Chiếu móng rồng thứ chín luôn thập thò uy hiếp bảy đại huyệt trên ngực và bụng của gã, trong lúc tám đạo kiếm ảnh còn lại bao vây chặt chẽ, chẳng còn đường tránh né.
Nhưng may thay Mộ Duy Lộ chợt phát hiện đối phương có một sơ hở chết người, liền mau chóng thọc mũi kiếm vào đấy. Quả nhiên Vu Diệp phải thoái bộ, bỏ lỡ chiêu kiếm.
Mộ Duy Lộ phấn khởi xông lên, tấn công bằng chiêu "Thu phong xuy lạp", ảo diệu và mãnh liệt phi thường. Vu Diệp lập tức bị hạ phong, rơi vào thế thủ.
Bọn Võ Đương mừng rỡ, reo hò vang dội khi thấy gà nhà đang thắng thế. Quả đúng như vậy, Mộ Duy Lộ đã hiển lộ thần oai, ra đòn như bão táp mưa sa khiến Vu Diệp chẳng thể phản kích được.
Nhưng hai khắc sau, dẫu xuất hạn dầm dề mà Võ Đương Thần Kiếm vẫn không sao đả thương được đối thủ. Gã nóng ruột tăng thêm công lực, cố kết liễu trận đánh.
Chỉ có năm vị chưởng môn và Cửu Hoa Thánh Y là biết Vu Diệp đang nhường nhịn, cam tâm chịu thế hạ phong. Dẫu chàng có giả vờ lúng túng khi chiết chiêu thì cũng không qua được mắt họ. Tử Khuê vốn là một kịch sĩ hạng bét. Chàng quên rằng một kẻ kém tài chẳng thể duy trì hơn ba trăm chiêu mà không đổ mồ hôi.
Sau lần chạm chiêu đầu tiên Tử Khuê đã biết bản lãnh mình cao hơn Mộ Duy Lộ vài bậc, cả về công lực lẫn nghề đánh kiếm. Vì thế, chàng cố tình lộ sơ hở để đối phương phản kích. Sau đó Tử Khuê giảm bớt chân khí ở tay kiếm, thi triển yếu quyết kiên thủ nhi an, bình thản giải phá những chiêu công quyết liệt của kẻ địch.
Phòng thủ là sở trường số một của Vu Mộc Chân Nhân. Ông có thể cầm cự hàng ngàn chiêu để nghiên cứu sở học của đối phương. Rốt cuộc, kẻ ấy kiệt sức mà bỏ cuộc, chẳng thèm đánh nữa.
Chân Nhân truyền thụ cái công phu nọ cho đồ đệ và Tử Khuê đã từng chịu đựng được những trận đánh dài hàng canh giờ. Do chàng không bị ràng buộc bởi lời thề giới sát nên trong lúc thử có thể phản công khi đối phương sơ hở.
"Thao Quang thần thức" là một môn võ công diệu kì, có riêng những chiêu thuộc về tay tả để sử dụng phối hợp với kiếm pháp.
Tuyệt học của Nga Mi đạo giáo thuở xưa vốn gồm có năm môn: nội công, kiếm thuật, quyền, chưởng, khinh công và y thuật. Lớp đệ tử cuối cùng chính là Vu Mộc Chân Nhân, Thạch Long Chân Nhân, Kỳ Hoàng Chân Nhân tức là Cửu Hoa Thánh Y. Mỗi người đã chọn sở trường cho mình chuyên luyện một hai môn.
Nhắc lại, trận đấu này đã giúp cho Tử Khuê đánh giá đúng bản lãnh vũ nghệ đích thực của mình. Đồng thời chàng cũng phát hiện ra việc đã hoàn thành lớp thứ bảy của "Thao Quang tâm pháp". Khi vận vào bàn tay tả để điểm huyệt Mộ Duy Lộ, chàng bàng hoàng nhận ra hai tia chân khí mờ nhạt, dài độ hai gang.
Tử Khuê ngờ ngợ hiểu ra, lòng vô cùng đau đớn và tiếc thương sư phụ. Chàng cố nén thương tâm, khéo léo điểm từng huyệt đạo trên bụng Mộ Duy Lộ rồi tìm cách bãi binh.
Trong giao đấu, kiếm kình cuồn cuộn uy hiếp da thịt nên Võ Đương Thần Kiếm không hề phát hiện cảm giác đau nhè nhẹ khi bị điểm huyệt. Rõ ràng là bàn tay của Vu Diệp chưa hề chạm đến người của gã.
Khi cây hương thời gian sắp cháy đến khắc thứ ba thì Cửu Hoa Chân Nhân lên tiếng nhắc nhở. Tử Khuê hiểu ý vừa giật lùi vừa nói:
- Tiểu đạo chỉ giỏi nghề thủ thân, có đánh tiếp cũng không đi đến đâu, mong thí chủ tha cho.
Ngoài kia, Cửu Hoa Thánh y cũng cao giọng:
- Thôi đủ rồi! Bần đạo công nhận Võ Đương Thần Kiếm đã thắng. Gã Vu Diệp này cứ như rùa rụt cổ, chẳng phản công được lấy một chiêu khiến người xem phải chán ngán.
Mộ Duy Lộ đang mệt muốn đứt hơi, mừng rỡ nhận lời ngay. Gã nhảy lùi lại tra gươm vào vỏ, ra vẻ kể cả mà khen ngợi Vu Diệp.
- Ngươi cũng là tay khá đấy. Hãy cố rèn luyện nữa nhé.
Chợt gã phát hiện giọng nói mình nặng nhọc, thiếu hơi và toàn thân bải hoải, nhớp nhúa mồ hôi, liền sượng sùng im bặt.
Tử Khuê hiểu thấu tim đen đối phương.
- Tiểu đạo luyện "Đồng Tử công", không gần nữ sắc nên rất ít mồ hôi.
Mộ Duy Lộ tưởng thật, thầm nghĩ:
- Có lẽ ta phải sống điều độ lại mới được.
Nhưng hình bóng mỹ miều của Đông Nhạc Tiên Hồ hiện ra đầy cám dỗ, khiến gã hiểu rằng mình không thể giảm bớt thú phong lưu. Người đàn bà ấy là báu vật số một thế gian, mỵ lực mê hồn, chỉ nghĩ đến lòng đã nghe rạo rực. Gã say đắm nàng ta đến mức sắn sàng bán cả hồn phách cho qủy dữ.
Vài ngày sau, Quách Tử Khuê sang đến địa phận Hà Nam, ghé vào huyện Trình ngủ một đêm. Huyện Trình nằm giữa đoạn đường từ Quang Hoá đi Nam Dương.
Đây là một trong những trường hợp hiếm hoi mà tên của một dòng họ trở thành tên địa phương.
Số là thế này ngày trước, khi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương tấn công thành Nam Dương thì gặp sự kháng cự quyết liệt của quân Mông Cổ. Thành Nam Dương cực kì kiên cố và người Mông thì giỏi nghề cang tiễn. Do đó, Chu Nguyên Chương hao binh tổn tướng rất nhiều, vây hãm thành hàng tháng mà không sao phá được.
Lúc ấy, bỗng có một thế hào ở vùng ranh giới Hồ Bắc- Hà Nam mang gia đình đến hỗ trợ quân Minh. Người này họ Trình, chuyên nghề nuôi ong lấy mật.
Vùng đất từ phía Nam thành Nam Dương đến Quang Hoá nằm trong vùng lưu vực của hai con sông Bạch Hà và Doan Hà nên rất phì nhiêu. Ngày đó rừng ở huyện Trình còn rất nhiều, lại gồm toàn những cây có hoa, nên nghề nuôi ong vô cùng phát đạt và dòng họ Trình làm nghề này lâu đời nhất.
Tổ phụ họ Trình đã mang đến Nam Dương năm mươi đàn ong độc và điều khiển chúng dễ dàng như người ta dạy chó vậy. Mấy vạn con ong vàng đen vằn vện ấy đã vô hiệu hoá bọn cung thủ Mông Cổ trên mặt thành nên quân Minh ung dung cự mộc phá cửa mà vào.
Chu Nguyên Chương vui mừng vô hạn liền ban cho Trình Phú Thứ tước Hoàng Phong Hầu và đất đai. Sau này, khi thống nhất được giang sơn, phân chia địa giới hành chính, huyện Trình đã được thành lập, trực thuộc phủ Nam Dương, tỉnh Hà Nam.
Đấy là chuyện xa xưa, giờ đây người kế thừa của họ Trình là Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim, tuổi độ hăm ba.
Trình tiểu thư vẫn tiếp tục nghề nuôi ong mât, song lại còn tổ chức ra một bang hội lấy tên là Hoàng Phong bang. Và đây là bang hội nhỏ duy nhất không thèm đóng góp cho ngân quỹ của Tồng đàn Võ Lâm.
Âu Dương Mẫn vô cùng cay cú song phải lờ đi vì cái tước Hầu của Trình Thiên Kim, cũng như những đàn ong độc đáng sợ. Vị nữ Hầu tước ấy chẳng thể dùng độc mà ám toán như đã làm với vài người khác. Còn như vu oan giá hoạ thì cũng chẳng được vì quan lại địa phương đều là người họ Trình.
Sáng mùng sáu tháng mười một, Tử Khuê rời huyện Thành đi về hướng Nam Dương xế chiều hôm sau thì đến Bạch Ngưu trấn. Đây là nơi mà Hầu phủ và tổng đàn Hoàng Phong bang toạ lạc. Quanh trấn toàn là rừng xanh và trảng cỏ đầy hoa, chốn kiếm ăn của hàng ngàn đàn ong mật. Mật đắt hơn gạo nên cư dân trong trấn chẳng thèm trồng lúa cứ việc bán mật mà mua ngũ cốc từ địa phương khác.
Tuyết bắt đầu rơi lất phất nên ai nấy đều co ro trong áo bông áo kép, đầu đội mũ lông hoặc nón rộng vành. Mặc nhiên là chẳng ai muốn ra đường trừ phi có việc cần.
Vậy mà cạnh chiếc cổng đá đồ sộ phía nam Bạch Ngưu trấn có mặt hơn tám người cứ đứng phơi mình, mắt hướng về phía hướng nam với vẻ đợi chờ, sốt ruột.
Họ gồm bốn nam, bốn nữ tay cầm cờ, lọng, chiêng, khánh, có lẽ đang chờ để tiếp đón một thượng khách nào đó. Thỉnh thoảng, gió bấc lại thổi tung lá đại kỳ nền vàng ủ rũ, ẩm ướt, để lộ ba chữ màu đen: "Hoàng Phong bang". Y phục của tám người ấy cũng có màu vàng sậm, thắt lưng đen.
Trong đám người cao niên nhất là một lão nhân tuổi quá sáu mươi, râu ba chỏm điểm bạc. Ông nhăn mặt cằn nhằn:
- Lạ thực! Trương Thiên Sư đã hứa rằng sau ngày khánh thọ Văn Thiên Tử sẽ đích thân đi hoặc cử đệ tử giỏi nhất của mình đến đây, sao giờ vẫn chưa thấy nhỉ.
Bỗng đôi mắt diều hâu của lão sáng lên khi phát hiện bóng dáng một kỵ sĩ đang đi đến. Lão hồi hộp nói với bảy người kia:
- Có lẽ là khách đã đến, các ngươi mau chuẩn bị đi.
Kỵ sĩ áo xanh đang gột tuyết ấy đã đến nơi. Gã ta không mặc áo cừu nên ai cũng thấy rõ bộ đạo bào thùng thình thêu thùa hình Bát Quái.
Lão nhân râu ba chòm cau mày lẩm bẩm:
- Gã tiểu đạo sĩ này tuổi mới đôi mươi, chẳng lẽ lại là đệ tử có pháp thuật cao cường nhất của Trương Thiên Sư. Hay là tài không đợi tuổi? Vả lại, pháp thuật cao thấp là do đạo hạnh, hoặc công lao tu hành kiếp trước, chứ đâu phải võ thuật mà cần nhiều năm khổ luyện.
Lão tự an ủi mình như thế rồi bước ra chặn đầu ngựa của lữ khách, cung kính vòng tay thi lễ:
- Lão phu là Trình Kiếm Các, phó bang chủ Hoàng Phong bang. Dám hỏi phải chăng đạo trưởng từ Võ Đương sơn đến?
Người bị hỏi chính là chàng trai xui xẻo Quách Tử Khuê của chúng ta. Tử Khuê ngỡ ngàng chắp một tay lên ngực, cúi đầu đáp lễ và đáp:
- Bẩm lão thí chủ!Tiểu đạo Vu Diệp đúng là từ nơi ấy đến.
Lòng chàng rất ngạc nhiên, chẳng hiểu vì sao đối phương lại biết việc ấy.
Trình Kiếm Các mừng rỡ hỏi thêm một cách xã giao:
- Chẳng hay ngọc thể lệnh Giáo chủ có an khang hay không?
Câu này cũng giống như cái cách mà người ta hỏi thăm sức khoẻ phụ mẫu của nhau vậy.
Sau khi được Tử Khuê cho biết đương kim Minh chủ Âu Dương Mẫn là lão ác ma Huyết Mai Hội chủ năm xưa. Hội đồng Võ lâm vô cùng lo lắng. Họ khẩn khoản mời Cửu Hoa Thánh Y đứng ra chủ trì đại cuộc, tìm cách tiêu diệt đại hoạ cho võ lâm. Cổ Sĩ Hoàng là người tài trí, đa mưu túc kế lại giỏi y thuật, quả xứng là lãnh tụ của phe Bạch đạo trong sự nghiệp giáng ma.
Cửu Hoa Chân Nhân đã nhận lời nên Tử Khuê cũng được xem trọng vì là sư điệt. Phần Trương Thiên Sư thì càng yêu mến Tử Khuê khi biết chàng là đệ tử duy nhất của Vu Mộc Chân Nhân. Trương Thiên Sư đặc biệt kính mến Chân Nhân, xem ông là bậc Địa Tiên.
Thấu hiểu hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm hiện nay của Tử Khuê, Trương Giáo chủ đã hăng hái giúp đỡ bằng cách ban cho chàng một tờ "Đạo điệp". Từ nay Tử Khuê sẽ mang thân phận đệ tử Thiên Sư Giáo, đánh lạc hướng kẻ thù.
Vì vậy, giờ đây chàng mặc áo đạo bào thiêu hình Bát Quái và phải ngượng ngùng đáp Trình Kiếm Các như sau:
- Đa tạ lão thí chủ. Gia sư vẫn bình an.
Cho rằng đã đón đúng người, Trình lão hân hoan ra hiệu cho thủ hạ. Thế là ban âm bốn nữ ấy vội khua chiêng gõ khánh ỏm tỏi và mang lọng đến che đầu cho khách.
Phần Trình phó bang chủ thì nắm lấy dây ràng mõm ngựa mà dắt vào trấn. Tử Khuê như người rơi từ cung trăng xuống. Chẳng biết phải phản ứng thế nào, đành bấm bụng để mặc bọn Hoàng Phong bang thực hiện nghi lễ đón khách.
Bách tính ở hai bên đường nghe tiếng chuông khánh vang rần, biết ngay rằng Hầu phủ đã mời được đại pháp sư đến. Họ ùa ra xem, đứng chật cả vệ đường kính cản vái dài, dù lòng thì tự hỏi liệu cái gã đạo sĩ mặt búng ra sữa kia có bỏ của chạy lấy người như những pháp sư khác hay không?
Bang chủ Hoàng Phong bang tức Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim đã bị qủy ám ba tháng nay. Thầy thuốc lắc đầu, còn các hòa thượng, đạo sĩ quanh vùng thì tuyên bố bỏ nghề tróc quả.
Người trong Bạch Ngưu trấn vẫn lén gọi Trình Thiên Kim là Trình Giảo Kim. Chẳng phải vì nàng ta có râu hoặc sử dụng búa làm vũ khí, mà vì Nữ Hầu tước ấy tính nóng như lửa. Và khi nàng đã nổi nóng thì còn dữ dằn hơn cả Thiên Lôi, toàn trấn phải đóng chặt cửa nếu không muốn bị mang hoạ. Tuy nhiên, lúc bình thường, Thiên Kim lại cực kỳ nhân hậu, rộng rãi và dễ thương. Do tính nết như thế nên đến tuổi hai mươi ba mà Trình tiểu thư vẫn chưa chồng. Khi nàng lâm bênh, bị nhốt chặt trong trang, dân trong trấn mới biết họ đều yêu mến nàng. Ngay cả những kẻ từng là nạn nhân cũng vậy. Thiên Kim luôn bồi thường cho khổ chủ với giá gấp ba. Bởi vậy, ai cũng mong cho nàng sớm lành bệnh.
Nhắc lại, Tử Khuê ngồi ngây người như tượng gỗ trên lưng ngựa, đỏ mặt, tía tai vì ánh mắt tò mò hoặc giễu cợi của dân chúng. Chàng tự nguyền rủa thầm cái số mạng đen đủi của mình và thở dài phó mặc.
Lát sau, đoàn người đã về đến phủ Hầu tước, ở giữa trấn cơ ngơi này rất rộng lớn, đầy nét cổ kính nhưng không điêu tàn vì được tôn tạo mỗi năm, dù đã hơn trăm tuổi.
Sân trước của Hầu phủ rộng thênh thang và sâu thăm thẳm, khiến khách phải mỏi chân mới vào đến toà khách sảnh.
Hầu tước lão phu nhân, mẹ của Trình Thiên Kim ra tận cửa đại sảnh để đón khách. Ánh mắt bà cũng lộ vẻ thất vọng khi thấy vị pháp sư này còn quá trẻ.
Sauk hi chủ khách đã an toạ bên bàn bát tiên, lão thái lập tực trình bày việc ái nữ bị quỷ ám nên bà mới cho người mang thư và lễ vật đến Long Hổ sơn, nhờ Trương Thiên Sư giúp đỡ cứu con gái bà.
Nghe xong, Vu Diệp tá hoả tam tinh,không ngờ lại rơi vào cảnh ngộ éo le này. Vu Mộc Chân Nhân sư phụ chàng không hề dạy học trò những phép yếm ma trừ qủy, hoặc nghi thức cúng bái nhưỡng tai, kỳ phúc. Lãnh vực này vốn là của Thiên Sư giáo.
Nay Tử Khuê đã nhận mình là đệ tử của Thiên Sư giáo thì chẳng thể bảo rằng không biết trấn yêu, hàng quỷ. Hơn nữa ánh mắt thiết tha cầu khẩn vì những giọt lệ trên gương mặt nhăn nheo của Trình lão thái đã khiến chàng không thể thoái than.
Tử Khuê ngồi chết lặng, miên man suy nghĩ cách giải quyết ổn thoả, thì một kỷ niệm xưa hiện về. Năm ấy chàng được mười lăm tuổi, Vu Mộc Chân Nhân nhận được thư của bằng hữu liền khăn gói đi thăm, dặn dò học trò ở nhà không được biếng nhác luyện võ. Chàng chẳng thể sang ngủ chung với tỳ nữ Tiểu Loan nên đành phải ở một mình trong đạo am. Chàng sợ ma và đã ngượng ngùng thú nhận với ân sư. Chân nhân phì cười và nghiêm nghị bảo: "Ngươi vốn là Bạch Hổ Đế Quân giáng phàm, khi gặp yêu ma quỷ quái thì chỉ cần trợn mặt nạt lớn một tiếng là xong, sao lại phải sợ". Nhờ câu nói ấy mà Tử Khuê không còn sợ ma nữa.
Giờ đậy, khi nhớ lại chuyện xưa, chàng bỗng muốn thử một phen, xem lời sư phụ có đúng hay không. Chàng sẽ tận lực và nếu có thất bại thì chủ nhà cũng chẳng thể trách được.
Nghĩ thế nên Tử Khuê bình tâm lại, nói với lão Hầu Tước phu nhân:
- Bần đạo mong thí chủ nói rõ bệnh tình của lệnh ái hiện nay.
Trình lão thái sùi sụt kể:
- Kim nhi hiện đang bị nhốt trong một toà nhà lớn phía sau Hầu phủ. Ban ngày thì nó hiền lành, ngây dại, để yên cho bọn nữ tỳ chăm sóc. Nhưng cứ từ đầu canh hai trở đi thì Kim nhi phát cuồng, đánh đuổi mọi người ra khỏi nơi ấy và múa quyền cho đến lúc gà gáy sang, cứ như phải tử chiến với ai vậy? Khi lão thân mời pháp sư, hoà thượng đến lập đàn tróc yêu thì Kim nhi xông ra đánh cho họ bươu đàu sứt trán.
Tử Khuê cau mày bảo:
- Những hiện tượng ấy không chứng minh lệnh ái bị quỷ ám mà có thể là mắc một thứ tâm bệnh nào đấy.
Phó bang chủ Hoàng Phong bang, Trình Kiếm Các nhăn nhó đỡ lời chị dâu:
- Đạo trưởng không biết đấy thôi, Kim nhi chỉ giỏi đánh kiếm pháp, còn quyền thuật thì rất kém. Thế mà lúc nó nổi điên ngay lão phu cũng chẳng địch lại. Hơn nữa, Kim nhi lại nói bằng giọng nam nhân già nua, thường vỗ ngực tự xưng mình là Vô Địch Quyền Vương. Có lẽ oan hồn của lão chết toi ấy đã nhập vào con bé.
Tử Khuê đã phóng lao thì phải theo lao, chẳng thèm lo lắng nữa. Chàng nghe bụng sôi sùng sục liền ngượng ngùng nói:
- Mong chư vị cho bần đạo một bữa cơm chay. Tối nay bần đạo sẽ tiến hành ngay việc hàng yêu.
Trình lão thái vui vẻ đáp:
- Lão thân quả là vô ý. Sẽ cho người dọn cơm ngay để chân nhân dùng. Nhưng xin hỏi vật cúng tế gồm những gì để lão thân chuẩn bị.
Tử Khuê sượng sùng đáp:
- Bần đạo trị qủy bằng đạo hạnh chứ không bằng bùa chú, kinh kệ, xin lão thí chủ chớ bận tâm.
Phương pháp này khác xa những người đến trước khiến Hầu tước lão phu nhân bội phần tin tưởng hân hoan đưa bậc Chân Nhân xuống phòng ăn.
Đầu canh hai đêm ấy, Tử Khuê và phe chủ nhà có mặt ở vườn hoa lớn, phía sau Hầu phủ. Cuối vườn hoa là một toà nhà gạch, được vây quanh bởi bức tường thấp ngay ngực, biệt lập với chung quanh. Đây là nơi Trình Thiên Kim luyện võ và hội họp với những đầu lĩnh Hoàng Phong bang, có tên là Tụ Nghĩa sảnh.
Tổng đàn của bang hội nhỏ bé này nằm trên mảnh đất mé hữu Hầu phủ và thông với nhau ở phần đuôi.
Trước giờ bị đuổi ra, tỳ nữ Hầu phủ đã thắp sáng mười ngọn đèn toạ đăng để người ngoài có thể quan sát những diễn biến trong Tụ Nghĩa sảnh.
Suốt ba tháng nay, đêm nào bọn tỳ nữ cũng phải thay phiên, túc trực bên ngoài Tụ Nghĩa sảnh nhìn qua cửa chính và những ô cửa sổ, cánh lợp pha lê, để theo dõi động tĩnh của Trình Thiên Kim. Trình lão thái cũng thường xuyên chống gậy mà đến đây khóc lên trước cảnh ái nữ múa quyến như điên dại, y phục ướt đẫm mồ hôi, tóc tai rũ rượi.