Biểu tượng Thất truyền (The Lost Symbol)

Chương 17: Chương 49 - 51:


trước sau

CHƯƠNG 49

Biểu Tượng Thất Truyền

Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng

Chương 49

Robert Langdon tắt điện thoại di động, càng lúc càng cảm thấy lo lắng.

Vì sao Katherine không bắt máy. Cô hứa sẽ gọi lại ngay sau khi thoát khỏi phòng thí nghiệm và sẽ tới đây gặp anh, nhưng mãi mà cô chưa đến, cũng không gọi điện.

Bellamy ngồi cạnh Langdon bên bàn đọc. Ông cũng vừa gọi cho một người mà theo lời ông, có thể thu xếp cho họ một nơi trú ẩn, một chỗ an toàn để náu mình. Rủi thay, người này cũng không trả lời, nên Bellamy phải để lại một tin nhắn khẩn cấp, dặn người đó gọi vào số điện thoại của Langdon ngay.

- Tôi sẽ tiếp tục thử - Bellamy bảo Langdon - nhưng tạm thời phải tự xoay xở thôi. Chúng ta cần thảo luận một kế hoạch về cái kim tự tháp.

Kim tự tháp. Với Langdon, khung cảnh đầy ấn tượng của phòng đọc gần như không còn tồn tại, thế giới của anh đã co hẹp lại phạm vi những đồ vật đang hiện hữu trước mặt - ngọn kim tự tháp bằng đá, cái gói rù êm phong bên trong chứa phần chóp - và một quý ông da đen nhảy ra từ trong bóng tối, cứu anh thoát khỏi cuộc thẩm vấn cầm chắc với CIA.

Langdon trông đợi nhận được chút thông tin hữu ích từ viên Kiến trúc sư Điện Capitol, nhưng xem ra Warren Bellamy cũng không lý trí gì hơn cái gã điên từng nói Peter đang trong giai đoạn chuộc tội. Bellamy khăng khăng bảo ngọn kim tự tháp đá này trên thực tế chính là Kim tự tháp Tam điểm trong truyền thuyết. Một tấm bản đồ cổ? Nó sẽ dẫn chúng ta đến với vốn tri thức hùng mạnh?

- Ông Bellamy - Langdon nhã nhặn lên tiếng - tôi không chấp nhận nổi cái ý tưởng về sự tồn tại của một loại tri thức cổ xưa biết mang lại sức mạnh lớn lao cho con người.

Ánh mắt Bellamy vừa thất vọng vừa tha thiết, khiến Langdon đâm lúng túng với luận thuyết của mình.

- Vâng, thưa Giáo sư, tôi cũng biết là anh sẽ cảm thấy như vậy, nhưng tôi không lấy làm ngạc nhiên. Anh nhìn nhận từ bên ngoài. Có những thực tế của Hội Tam điểm mà chắc chắn anh sẽ cho là huyền hoặc, bởi vì anh chưa được khai tâm đầy đủ và chưa sẵn sàng để hiểu chúng.

Langdon cảm thấy như bị thương hại. Tôi đâu phải thành viên trong thuỷ thủ đoàn Odyesseus, nhưng tôi tin chắc bọn khổng lồ một mắt chỉ là truyền thuyết.

- Thưa ông Bellamy, cho dù huyền thoại có là sự thật… thì cái kim tự tháp này cũng không thể là Kim tự tháp Tam điểm được.

- Không ư? - Bellamy rê một ngón tay qua dòng ký hiệu của Hội Tam điểm khắc trên đá - Tôi thấy nó hoàn toàn khớp với mô tả. Một kim tự tháp đá với chóp kim loại sáng ngời, mà, theo bản chụp X quang của Sato, chắc chắn chính là thứ Peter tin tưởng gửi gắm anh.

Bellamy nhấc cái gói hình hộp xinh xắn lên, ướm ướm sức nặng của nó trên tay.

- Kim tự tháp đá này cao chưa tới 0,3 mét - Langdon nói tiếp - trong khi mọi khảo dị đều khẳng định Kim tự tháp Tam điểm rất lớn.

Rõ ràng Bellamy đã lường trước chi tiết này.

- Anh biết đấy, truyền thuyết kể về một cái kim tự tháp vươn cao tới tận tầm với của Chúa.

- Chính xác.

- Tôi có thể hiểu sự băn khoăn của anh, thưa Giáo sư. Tuy nhiên, cả những Bí ẩn cổ xưa và triết lý Tam điểm đều ca ngợi tiềm năng của Chúa ngay trong mỗi chúng ta. Về mặt hình tượng, người ta có thể nói rằng bất kỳ thứ gì trong tầm với của một người đã được khai sáng… thì cũng trong tầm với của Chúa.

Langdon không hề dao động trước cách chơi chứ đó.

- Thậm chí Kinh thánh cũng có cùng quan điểm. - Bellamy nói - Sáng Thế ký kể “Chúa tạo ra loài người theo trí tưởng tượng của Người”, từ đó chúng ta nên chấp nhận hàm ý của câu này, rằng loài người không hề thấp kém hơn Chúa. Kinh Phúc âm Luca 20:17 còn khẳng định “Vương quốc của Chúa nằm ngay trong chính các ngươi”.

- Xin lỗi, theo chỗ tôi biết, bất kỳ tín đồ Thiên Chúa giáo nào cũng không dám coi mình ngang hàng với Chúa.

- Dĩ nhiên là không rồi, - Bellamy nói, giọng đanh lại - Bởi vì hầu hết các tín đồ Thiên Chúa giáo muốn tiếp nhận quan điểm đó theo cả hai cách. Họ muốn được tự hào tuyên bố rằng bản thân tin vào Kinh thánh, nhưng cũng lại bỏ qua những phần họ thấy là quá khó hoặc quá bất tiện để tin theo.

Langdon chẳng nói chẳng rằng.

- Nhưng dù sao, - Bellamy nói tiếp - bấy nay những mô tả cho rằng Kim tự tháp Tam điểm đủ cao để chạm tới Chúa trời đã dẫn tới nhiều cách hiểu sai lầm về kích thước của nó. Cũng khá tiện, vì nó làm cho những học giả như anh tin chắc rằng kim tự tháp chỉ là huyền thoại và chẳng ai tìm kiếm nó nữa.

Langdon nhìn ngọn tháp đá.

- Tôi xin lỗi vì làm ông thất vọng, - anh nói - Tôi thường nghĩ rằng Kim tự tháp Tam điểm chỉ là một huyền tích.

- Lẽ nào anh không thấy thật phi lý khi người ta khắc bản đồ của những người thợ đá lên đá ư? Xưa nay, người ta chỉ khắc đá những thứ quan trọng mà thôi, chẳng hạn các cột chỉ đường, hay những tấm thẻ Mười điều giới răn chỉ dẫn cách hành xử của loài người mà Chúa trao cho Moses…

- Tôi hiểu, nhưng người ta luôn cho rằng luận thuyết về Kim tự tháp Tam điểm là Truyền thuyết. Truyền thuyết ấy ngụ ý nó chỉ là một huyền tích.

- Phải, truyền thuyết - Bellamy cười khan - Tôi sợ rằng anh cũng đang gặp phải cùng vấn đề của Moses.

- Tôi không hiểu?

Bellamy lộ vẻ thích thú, ông xoay người trên ghế, phóng mắt nhìn lên bao lơn tầng hai, nơi có mười sáu bức tượng đồng đang ngó xuống họ.

- Anh thấy Moses không?

Langdon ngước nhìn bức tượng được nói đến.

- Có chứ.

- Ông ấy có cặp sừng.

- Tôi đã chú ý thấy điều đó.

- Nhưng anh có biết tại sao Moses lại có sừng không?

Cũng như hầu hết các giáo viên. Langdon không thích bị người khác lên lớp. Ngài Moses ở phía trên họ kia có cặp sừng vì chính cái lý do khiến hàng nghìn tấm hình Thiên Chúa giáo mô tả Moses có sừng - một cách hiểu sai về cuốn Xuất Ai Cập ký. Văn bản Do Thái nguyên gốc mô tả Moses có “karan ‘ohrpanav” (lớp da mặt toả ra những tia sáng) - nhưng khi Nhà thờ Công giáo La Mã sáng tạo bản dịch chữ La tin chính thức của Kinh thánh, dịch giả đã dịch sai phần mô tả về Moses, diễn đạt thành “comuta esset facies sua”, nghĩa là “mặt ông ấy có sừng”. Từ đó trở đi, các hoạ sĩ và nghệ sĩ điêu khắc, do e ngại bị trả thù nếu không theo đúng Sách Phúc âm, bắt đầu mô tả Moses với cặp sừng.

- Đó là một lầm lẫn thuần tuý, - Langdon đáp - Saint Jerome đã dịch sai, vào khoảng 400 năm sau Công nguyên.

Bellamy có vẻ rất ấn tượng.

- Chính xác. Một trường hợp dịch sai, và kết quả là… Moses tội nghiệp giờ dị dạng mãi mãi.

“Dị dạng” là một cách nói rất hay. Khi còn bé, Langdon đã vô cùng khiếp hãi khi nhìn thấy pho tượng “Moses có sừng” của Michelangelo, pho tượng trông như quỷ dữ, đặt ở trung tâm Đại Thánh đường St. Peter thành Rome.

- Tôi nhắc chuyện Moses có sừng để chứng minh rằng một từ duy nhất, khi bị hiểu sai, có thể viết lại lịch sử như thế nào. - Bellamy nói.

Lập luận rất thuyết phục, Langdon nghĩ bụng, vì anh đã từng trực tiếp trải nghiệm tình huống này ở Paris vài năm về trước. SanGreal: Chén Thánh. SanReal: Hoàng gia.

- Trong trường hợp Kim tự tháp Tam điểm, - Bellamy quay lại câu chuyện của họ - người ta nghe đồn về một “truyền thuyết”, và ý tưởng nảy sinh. Truyền thuyết(63) về Kim tự tháp Tam điểm, nghe giống một huyền tích. Nhưng từ truyền thuyết thực ra ám chỉ thứ khác. Nó đã bị dịch sai. Giống từ bùa chú - ông ta mỉm cười - Ngôn ngữ có thể rất hữu dụng trong việc che giấu sự thật.

- Đúng như vậy, nhưng tôi chưa hiểu ý ông.

- Robert, Kim tự tháp Tam điểm là một bản đồ, và như tất cả các loại bản đồ, nó có mục chú giải- một chìa khoá cho anh biết cách đọc nó - Bellamy cầm cái gói hình hộp và giơ nó lên - Anh không thấy sao? Cái chóp này là lời chú giải cho kim tự tháp. Nó chính là chìa khoá cho anh biết cách đọc thứ hiện vật uy thế nhất trên Trái đất… một tấm bản đồ chỉ nơi cất giấu kho báu vĩ đại nhất của nhân loại, đó là vốn tri thức bị thất truyền của mọi thời đại.

Langdon im lặng.

- Tôi khiêm tốn gợi ý rằng, - Bellamy nói - Kim tự tháp Tam điểm đồ sộ trong suy nghĩ của anh thực ra chỉ là thứ này… một khối đá khiêm nhường với phần chóp bằng vàng vươn cao đủ để Chúa chạm tới. Đủ cao để một người được khai sáng có thể cúi xuống và chạm tới nó.

Sự im lặng bao trùm hai người đàn ông trong vài giây.

Langdon ngó cái kim tự tháp, quan sát nó bằng một nhãn quan mới và cảm nhận một niềm phấn khích bất ngờ. Ánh mắt anh lại di chuyển tới phần mật mã Tam điểm.

- Nhưng đoạn mật mã này… dường như…

- Đơn giản phải không?

Langdon gật đầu.

- Gần như bất kỳ ai cũng có thể giải mã nó.

Bellamy mỉm cười, rút ra một cây bút chì và giấy cho Langdon.

- Vậy thì có lẽ anh nên khai sáng cho chúng tôi?

Langdon lưỡng lự trước việc đọc đoạn mật mã, và nếu cân nhắc các tình huống thì dường như đây là hành vi phản bội lại niềm tin của Peter. Hơn nữa, cho dù dòng chữ khắc nói gì thì anh cũng không tin rằng nó sẽ tiết lộ nơi cất giấu một thứ nào… càng không thể cất giấu một trong những kho báu kỳ vĩ nhất lịch sử.

Langdon nhận lấy bút chì từ Bellamy và gõ gõ nó vào cằm mình trong khi nghiên cứu đoạn mã. Mật mã đơn giản đến mức anh gần như chẳng cần bút chì và giấy. Tuy vậy, anh vẫn muốn bảo đảm không gây ra sai sót nên cẩn thận đặt bút lên giấy và viết ra chìa khoá giải mã phổ biến nhất cho một đoạn mật mã của Hội Tam điểm. Chìa khoá gồm 4 hệ chia ô - hai để trơn và hai có dấu chấm - và cho bảng chữ cái lần lượt xuất hiện theo trình tự. Mỗi chữ cái trong bảng chữ giờ được bố trí vào bên trong một “ô” hoặc “quầy”. Hình dạng của mỗi ô chữ cái trở thành biểu tượng cho chữ cái đó.

Ý đồ đơn giản như vậy nên gần như rất dễ dàng.

Langdon kiểm tra kỹ lại bản viết tay của mình. Cảm thấy tự tin rằng chìa khoá giải mã hoàn toàn đúng, giờ anh mới chuyển trọng tâm chú ý đoạn mật mã được khắc trên kim tự tháp. Để giải mã nó, tất cả những gì anh phải làm là tìm cho ra hình dạng ăn khớp trên chìa khoá giải mã của mình và viết ra chữ cái bên trong.

Ký tự đầu ăn trên kim tự tháp trông như một mũi tên hướng xuống dưới hoặc một đài hoa. Langdon nhanh chóng tìm ra cái ô có hình dạng đài hoa trên chìa khoá giải mã. Nó nằm ở góc bên trái phía dưới và có chứa chữ cái S.

Langdon viết ra chữ S.

Biểu tượng tiếp theo trên kim tự tháp là một ô vuông có dấu chấm nhưng khuyết cạnh bên phải. Hình dạng đó trên hệ ô giải mã có chứa chữ cái ô.

Anh lại viết ra chữ O.

Biểu tượng thứ ba là một ô vuông giản dị, có chứa chữ cái E

Langdon viết chữ E

Anh cứ tiếp tục, tốc độ càng lúc càng nhanh cho tới khi hoàn tất toàn bộ, Bấy giờ, nhìn xuống bản dịch vừa kết thúc của mình, Langdon thở phào bối rối. Có thể ví như khoảnh khắc tìm ra rồi!

Gương mặt Bellamy thoáng một nụ cười.

- Như anh biết đấy. Giáo sư, Bí mật cổ xưa chỉ được giữ gìn cho những người thật sự được khai sáng.

- Phải - Langdon nói và cau mày. Rõ ràng, mình không đủ tư cách!

Chú thích:

(63) Ở đây có sự chơi chữ rất khó dịch. Nguyên bản từ “legend” vừa có nghĩa là truyền thuyết” nhưng đồng thời cũng có nghĩa là “mục chú giải, chú thích” trên những tấm bản đồ, tranh ảnh - ND.

CHƯƠNG 50

Biểu Tượng Thất Truyền

Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng

Chương 50

Trong một văn phòng dưới tầng hầm sâu bên trong tổng hành dinh CIA ở Langley, Virginia, bức mật mã Tam điểm gồm 16 ký tự giống với bản Langdon đang diễn giải nhấp nháy hiện ra trên một màn hình máy tính độ nét cao. Chuyên gia phân tích cao cấp của Văn phòng An ninh Nola Kaye ngồi một mình và nghiên cứu hình ảnh được chính sếp của cô, Giám đốc Inoue Sato gửi bằng thư điện tử tới vào quãng mười phút trước.

Vụ này có phải là một trò đùa không nhỉ?

Dĩ nhiên Nola biết không phải như vậy. Giám đốc Sato không có khiếu hài hước, mọi sự kiện tối nay có thể là bất cứ chuyện gì trừ bông đùa. Được vào hàng ngũ cao cấp của Văn phòng An ninh CIA, Nola đã biết thế nào là mặt tối của quyền lực. Nhưng những gì chứng kiến trong 24 giờ qua đã mãi mãi làm thay đổi ấn tượng của cô về bí mật của các nhân vật quyền thế.

- Vâng, thưa Giám đốc, - Nola tì chiếc điện thoại lên vai trong khi trò chuyện với Sato - Hình khắc quả đúng là mật mã Hội Tam điểm. Tuy nhiên, bản giải mã chẳng có ý nghĩa gì cả. Trông như thể một hệ thống các chữ cái xếp ngẫu nhiên - Cô đăm đăm ngó xuống nội dung đã giải mã.

- Dứt khoát nó phải nói lên điều gì đó, - Sato vẫn quả quyết.

- Không hề, trừ phi có một lớp mã hoá thứ hai mà tôi vẫn chưa nhận ra.

- Có manh mối nào không? - Sato hỏi.

- Đây là một ma trận kẻ ô vuông, nên tôi có thể áp dụng những quy trình thông thường, chẳng hạn hệ mật mã Vigenere, vỉ nướng, lưới mắt cáo và vân vân, nhưng chưa có gì hứa hẹn cả, đặc biệt nếu đó là một dạng mã không còn phổ biến.

- Hãy làm những gì có thể, và thật nhanh vào. Thế còn X quang thì sao?

Nola xoay ghế ngồi tới hệ thống khác, trên đó hiển thị hình chụp X quang của một chiếc túi. Sato đã đòi hỏi mọi thông tin về cái thứ nhang nhác kim tự tháp thu nhỏ đặt trong hộp hình vuông này. Thông thường, một vật chỉ cao 5 centimét sẽ không thể là vấn đề an ninh quốc gia, trừ phi nó được chế tạo từ plutoni giàu. Nhưng vật này không phải vậy. Nó được làm bằng một chất liệu cũng gây bất ngờ không kém.

- Bản phân tích định lượng - hình ảnh rất thuyết phục, - Nola đáp - 29,3g mỗi centimet khối. Làm bằng vàng nguyên chất. Rất, rất giá trị.

- Còn gì nữa không?

- Thực ra là còn. Máy quét định lượng thể hiện những chỗ không đồng đều rất nhỏ trên bề mặt kim tự tháp bằng vàng này. Hoá ra ở đây cũng có khắc nội dung văn bản.

- Thật sao? - Giọng Sato đầy hy vọng - Nó nói gì?

- Tôi chưa thể nói được. Phần chữ khắc cực kỳ mờ. Tôi đang cố cải thiện bằng cách lọc nhưng độ phân giải trên máy X quang không lớn.

- Được rồi, thử tiếp đi. Hãy gọi cho tôi khi cô thu được kết quả gì đó!

- Vâng, thưa Giám đốc.

- Mà này Nola? - giọng Sato nghe như thể hăm doạ - Trong mọi điều cô biết suốt 24 tiếng qua, hình ảnh của kim tự tháp đá và phần chóp bằng vàng là các cấp độ an ninh cao nhất. Cô chẳng phải tham khảo ý kiến ai cả. Cô báo cáo trực tiếp cho tôi. Tôi muốn bảo đảm mọi việc rành rẽ.

- Dĩ nhiên, thưa sếp.

- Tốt. Giữ liên lạc nhé! - Sato tắt máy.

Nola dụi mắt và mệt mỏi nhìn lại các màn hình máy tính của mình. Cô đã không ngủ suốt hơn 36 tiếng qua, và cô biết rất rõ rằng cô sẽ không ngủ lại được chừng nào vụ này chưa đi tới hồi kết.

Có thể là bất kỳ chuyện gì.

***

Trở lại Trung tâm Khách tham quan của Điện Capitol, bốn chuyên gia tác chiến hiện trường mặc đồ đen của CIA đứng ở cửa đường hầm, hau háu nhìn lối vào tranh tối tranh sáng, y như thể đàn sói háo hức trước cuộc săn.

Sato tiến lại, vừa tắt máy sau khi nhận một cú điện.

- Này, - bà ta nói, vẫn cầm chiếc chìa khoá của Kiến trúc sư - các anh đã rõ phạm vi nhiệm vụ của mình chưa?

- Rõ rồi, - viên đội trưởng đáp - Chúng tôi có hai mục tiêu. Thứ nhất là kim tự tháp đá có chữ khắc, cao xấp xỉ 0,3 mét. Thứ hai là một cái gói hình hộp, nhỏ hơn, cao xấp xỉ 5 centimét. Nơi cất giữ chúng gần đây nhất là túi của Robert Langdon.

- Đúng. - Sato xác nhận - Phải thu hồi cả hai thứ, nhanh chóng và nguyên vẹn. Các anh còn câu hỏi nào nữa không?

- Phạm vi cho phép sử dụng vũ lực?

Vai Sato vẫn run run do bị Bellamy nện bằng một khúc xương.

- Như tôi đã nhấn mạnh, thu hồi hai vật đó là điều quan trọng nhất.

- Rõ - Bốn người quay đi và tiến thẳng vào đường hầm tối om.

Sato châm một điếu thuốc và nhìn theo cho tới khi bóng họ khuất hẳn.

CHƯƠNG 51

Biểu Tượng Thất Truyền

Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng

Chương 51

Katherine Solomon luôn rất cẩn thận khi lái xe, nhưng lúc này cô đang nhấn mạnh ga chiếc Volvo và phóng bạt mạng với tốc độ hơn 90 dặm trên đường Suitland Parkway. Bàn chân áp trên chân ga cứ run bắn suốt cả một dặm đường dài cho tới khi cơn hoảng loạn của cô lắng dần. Bấy giờ, cô cũng nhận ra nỗi sợ hãi không còn là nguyên cớ khiến cô run đến mức mất hết kiểm soát như thế nữa.

Mà là do lạnh.

Khí đêm giá buốt tràn qua cửa sổ xe vỡ nát, trùm lên cơ thể Katherine như trận gió miền cực bắc. Nhận ra hai bàn chân đi tất mỏng đã tê cứng, cô bèn lần tìm đôi giày dự phòng vẫn cất sẵn dưới gầm ghế bên cạnh. Trong khi tìm giày, cô cảm thấy đau nhói ở vết bầm tím trên cổ họng, nơi bàn tay của kẻ tấn công siết vào.

Kẻ đập nát cửa sổ xe cô chẳng có nét gì của quý ông tóc vàng mà Katherine vẫn nghĩ là bác sĩ Christopher Abaddon. Mái tóc dày và nước da mịn màng của hắn đã biến mất tăm, thay vào đó là cái đầu trọc lốc, bộ ngực trần và gương mặt vằn vện những hình xăm trổ gớm ghiếc.

Katherine lại như nghe thấy giọng nói của hắn, thì thào trong tiếng gió hú bên ngoài cửa sổ xe vỡ nát. Katherine, lẽ ra ta đã phải giết chết ngươi từ mười năm về trước… vào cái đêm ta giết mụ già mẹ ngươi ấy.

Katherine rùng mình, không còn nghi ngờ gì nữa. Chính là hắn.

Cô không bao giờ quên vẻ hung bạo dữ tợn trong đôi mắt ấy. Cô cũng chưa bao giờ quên tiếng súng duy nhất của anh trai mình, tiếng súng đã hạ sát gã đàn ông này, hất hắn từ một vách đá cao xuống dòng sông lạnh giá phía dưới, hắn chìm luôn qua lớp băng và không thấy nổi lên nữa. Các điều tra viên đã tìm kiếm hàng tuần liền nhưng không bao giờ thấy xác hắn, cuối cùng họ kết luận rằng hắn đã bị nước cuốn ra Vịnh Chesapeake.

Họ nhầm rồi, giờ thì cô biết rõ như vậy. Hắn vẫn còn sống.

Và hắn đã trở lại.

Ký ức ồ ạt tràn về làm Katherine lặng người đau đớn. Đã tròn mười năm rồi. Đúng Lễ Giáng sinh. Katherine, Peter, và mẹ của họ - toàn bộ gia đình cô - quây quần tại lâu đài đá ở Potomac. Lâu đài này toạ lạc trên khu đất có rừng rộng hai trăm mẫu, có dòng sông chảy ngang qua.

Theo truyền thống, mẹ cô miệt mài ở trong bếp, sung sướng thực hiện truyền thống ngày nghỉ lễ là chuẩn bị đồ ăn cho hai người con. Dù đã ở tuổi 75, Isabel Solomon vẫn là một đầu bếp xuất sắc, và tối nay, mùi thịt quay, nước xốt củ cải, khoai tây nghiền tỏi toả khắp nhà, thơm đến chảy nước miếng. Trong khi bà mẹ chuẩn bị bữa ăn thì Katherine và anh trai thư giãn bên nhà kính trồng cây, thảo luận về niềm đam mê gần đây nhất của Katherine - một lĩnh vực lạ lẫm mang tên Lý trí học. Là hình thức kết hợp mới mẻ giữa vật lý hạt hiện đại và chủ nghĩa thần bí cổ xưa, Lý trí học hoàn toàn chinh phục được cô.

Vật lý gặp gỡ triết lý.

Katherine kể cho Peter nghe về một vài thí nghiệm mà cô ao ước được thực hiện, và nhận thấy vẻ thích thú trong ánh mắt anh mình. Katherine cảm thấy rất vui vì có thể giúp anh khuây khoả trong dịp Giáng sinh, bởi ngày lễ này cũng gợi nhớ một bi kịch kinh khủng và đau xót.

Con trai của Peter, Zachary.

Sinh nhật lần thứ 21 của đứa cháu trai cũng chính là sinh nhật cuối cùng của nó. Cả gia đình đã trải qua một cơn ác mộng, dường như chỉ đến lúc này Peter mới có thể cười vui trở lại.

Zachary là một thanh niên có lớn nhưng không có khôn, hư hỏng ương bướng, dễ nổi loạn và hay cáu bẳn. Mặc dù được nuôi dạy trong tình yêu thương và sự chiều chuộng, thằng bé dường như vẫn quyết tâm tách mình khỏi “chuẩn mực” của gia đình Solomon. Nó bỏ học trung học, đua đòi nhậu nhẹt và lảng tránh những nỗ lực đến tuyệt vọng của bố mẹ nhằm hướng cho nó đi vào đường ngay nẻo chính.

Nó làm trái tim Peter tan nát.

Không lâu trước sinh nhật 18 của Zachary, Katherine đã cùng ngồi với mẹ và anh trai cô để nghe họ tranh luận xem có nên truất quyền thừa kế của Zachary cho tới khi cậu ta trưởng thành hơn không.

Quyền thừa kế của gia đình Solomon - một truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm trong gia đình - để lại một khoản tài sản khổng lồ cho tất cả mọi đứa trẻ của gia đình Solomon vào đúng sinh nhật lần thứ 18. Gia đình Solomon tin rằng một khoản tài sản thừa kế sẽ có ích ngay từ giai đoạn đầu cuộc đời người ta hơn là về cuối đời. Trao khối tài sản lớn của gia đình Solomon vào tay những cô cậu thanh niên đầy nhiệt huyết cũng chính là chìa khoá để làm cho tài sản của gia đình sinh sôi hơn nữa. Tuy nhiên, trong trường hợp này, mẹ Katherine cho rằng sẽ rất nguy hiểm khi trao cho cậu con trai quậy phá của Peter một khoản tiền lớn như vậy. Peter thì không nhất trí.

- Tài sản thừa kế của gia đình Solomon, - anh trai cô đã nói - là một truyền thống gia đình không nên phá bỏ. Khoản tiền này có thể buộc Zachary phải sống có trách nhiệm hơn.

Buồn thay, anh trai cô đã nhầm.

Ngay khi nhận được tiền, Zachary đã bỏ nhà đi biệt, không hề mang theo bất kỳ thứ gì, vài tháng sau, nó xuất hiện trên các báo lá cải: TAY CHƠI GIÀU CÓ VỚI LỐI SỐNG VƯƠNG GIẢ KIỂU U CHU. Các báo “lá cải” thích thú săn tin về cuộc sống sa đoạ của Zachary.

Những bức ảnh ghi lại các buổi tiệc tùng trác táng trên du thuyền và những trận say sưa bốc trời trong các vũ trường quả là khó chấp nhận với gia đình Solomon, nhưng những bức ảnh về đứa con hoang dã của họ chuyển từ thất vọng sang hãi hùng khi báo chí đưa tin Zachary bị bắt trên đường vận chuyển cocaine vào biên giới Đông u: TRIỆU PHÚ SOLOMON TRONG NHÀ TÙ THỔ NHĨ KỲ.

Họ được biết nhà tù đó mang tên Soganlik - một trại tạm giam mạt hạng và khắc nghiệt nằm ở quận Kartal ngay ngoại ô Istanbul. Peter Solomon, vì lo lắng cho sự an toàn của con trai, đã bay sang Thổ Nhĩ Kỳ để cứu nó. Ông trở về tay không, thậm chí còn không được gặp mặt Zachary. Tin hứa hẹn duy nhất là những người quen biết rất có thế lực của gia đình Solomon tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đang nỗ lực làm thủ tục dẫn độ thằng bé càng nhanh càng tốt.

Tuy nhiên, hai ngày sau, Peter nhận được một cuộc gọi đường dài đầy hãi hùng. Sáng tiếp theo, báo chí đưa tin: THÁI TỬ SOLOMON BỊ SÁT HẠI TRONG TÙ.

Các bức ảnh chụp trong tù thật kinh khủng, vậy mà báo chí vẫn nhẫn tâm đăng tất cả lên, thậm chí sau khi lễ an táng của gia đình Solomon qua đi đã lâu. Vợ Peter không bao giờ tha thứ cho chồng vì đã không thể giải cứu được Zachary, sáu tháng sau cuộc hôn nhân của họ kết thúc. Peter cô độc từ đó.

Phải mất nhiều năm sau Katherine, Peter và mẹ của hai người, bà Isabel, mới lại sum họp nhân lễ Giáng sinh. Nỗi đau vẫn còn hiện diện trong gia đình họ, nhưng cũng đang phôi pha dần theo mỗi năm tháng qua đi. Lúc này, tiếng nổ lách tách vui tai phát ra từ nhà bếp khi bà mẹ chuẩn bị bữa ăn tối truyền thống. Còn trong nhà kính, Peter cùng Katherine đang khoan khoái ăn một chút pho-mát mềm và trò chuyện thoải mái.

Rồi bất ngờ có một âm thanh vang lên.

- Xin chào, cả nhà Solomon, - ai đó cất tiếng nhẹ hẫng phía sau họ.

Giật mình, Katherine cùng anh trai quay phắt lại và nhìn thấy một kẻ cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn bước vào nhà kính. Anh ta đeo chiếc mặt nạ trượt tuyết màu đen che kín cả gương mặt, chỉ để lộ đôi mắt ánh lên nét hung bạo man dại.

Peter định thần lại ngay.

- Anh là ai?! Làm sao anh vào được đây?

- Tôi quen Zachary, con trai ông, trong tù. Nó cho tôi biết chìa khoá giấu ở đâu - Kẻ lạ mặt giơ ra một chiếc chìa khoá cũ và cười hềnh hệch như một con thú dữ - Ngay trước khi tôi đập chết nó.

Miệng Peter há hốc.

Một khẩu súng xuất hiện, nhắm thẳng vào ngực Peter.

- Ngồi xuống.

Peter ngã ngồi xuống ghế.

Khi gã kia bước vào phòng, Katherine cứng đờ người. Sau chiếc mặt nạ, ánh mắt hắn man dại không khác gì của một con thú điên.

- Này? - Peter kêu lên, như thể tìm cách báo động cho bà mẹ đang ở trong bếp - Anh là ai chứ, cứ lấy thứ gì anh muốn, và ra khỏi đây ngay!

Gã đàn ông chìa súng vào ngực Peter.

- Vậy ông nghĩ tôi muốn thứ gì?

- Cứ nói thử xem bao nhiêu - Peter đáp - Chúng tôi không có tiền mặt trong nhà, nhưng tôi có thể…

Con quái vật cười phá lên.

- Đừng phỉ báng tôi thế. Tôi không đến đây vì tiền. Tối nay tôi đến đây vì một quyền thừa kế khác của Zachary - Gã cười nhăn nhở - Nó kể cho tôi nghe về cái kim tự tháp.

Kim tự tháp ư? Katherine ngẫm nghĩ trong nỗi hãi hùng. Kim tự tháp gì?

Peter tỏ ra thách thức.

- Tôi không hiểu anh đang nói về cái gì.

- Đừng tưởng lừa được tôi! Zachary nói với tôi về thứ ông cất giữ trong phòng nghiên cứu. Tôi muốn có nó. Ngay bây giờ.

- Bất kể Zachary đã nói gì, thì cũng là lầm lẫn, - Peter bác bỏ - Tôi không biết anh đang nói về chuyện gì.

Không ư? - Kẻ đột nhập quay phắt lại và chĩa súng vào mặt Katherine - Giờ thì sao nào?

Mắt Peter đầy vẻ sợ hãi.

- Anh phải tin tôi! Tôi không biết anh muốn thứ gì?

- Nếu ông dối trá tôi một lần nữa thôi, - gã kia đe doạ, vẫn chĩa súng vào Katherine - tôi thề rằng sẽ khiến ông mất bà ta - Gã mỉm cười - Theo lời Zachary, cô em gái bé bỏng của ông đối với ông còn quý giá hơn cả…

- Có chuyện gì vậy? - bà Isabel quát lên, bước vào phòng với khẩu súng Browning Citori của Peter, nòng chĩa thẳng vào ngực gã đàn ông. Kẻ đột nhập xoay về phía bà, nhưng bà già 75 tuổi không hề lãng phí thời gian. Bà nã ngay một phát súng đinh tai nhức óc. Kẻ đột nhập bật người về phía sau, bóp cò tứ tung làm mấy ô cửa sổ vỡ tan rồi chạy lao qua cửa, đánh rơi cả khẩu súng ngắn.

Peter phản ứng tức thì, ông tung người chộp lấy, khẩu súng vừa rơi. Katherine ngã khuỵu xuống, bà cụ Solomon chạy vội đến bên con gái, quỳ xuống cạnh cô.

- Chúa ơi, con có đau không?!

Katherine lắc đầu, choáng váng đến nỗi không nói được gì. Bên ngoài ô cửa kính đã vỡ tan, gã đàn ông đeo mặt nạ lồm cồm bò dậy và chạy vào rừng, ôm chặt lấy mạng sườn. Peter Solomon liếc nhìn lại để biết chắc rằng mẹ và em gái vẫn an toàn. Thấy họ đều ổn cả. Ông mới cầm khẩu súng và lao ra cửa đuổi theo kẻ đột nhập.

Mẹ Katherine cầm lấy tay cô, run bắn.

- Ơn Chúa, con không sao - rồi đột nhiên bà giật nảy mình. -Katherine! Con đang chảy máu kìa! Có máu! Con bị thương!

Katherine nhìn thấy máu. Rất nhiều máu. Trên khắp người cô. Nhưng cô không hề cảm thấy đau.

Bà cụ cuống cuồng tìm kiếm vết thương trên cơ thể Katherine.

- Vết thương ở chỗ nào nhỉ?

- Mẹ, con không biết, con không hề cảm thấy gì cả!

Bất chợt phát hiện ra chỗ chảy máu, Katherine lạnh toát người.

- Mẹ, không phải con… - Cô chỉ vào sườn chiếc áo khoác bằng sa tanh màu trắng của bà cụ, chỗ máu đang chảy ra xối xả, và rõ ràng có một lỗ thủng nhỏ. Mẹ cô nhìn xuống, trông bà còn ngơ ngác hơn bất kỳ điều gì khác. Bà nhăn mặt và rúm lại, cứ như thể đến bây giờ cơn đau mới tác động đến bà.

- Katherine? - Giọng bà vẫn rất bình tĩnh, nhưng đột nhiên nó như mang toàn bộ sức nặng của cả bảy mươi lăm năm - Mẹ cần gọi cấp cứu.

Katherine chạy bổ tới điện thoại trong sảnh và gọi cấp cứu. Khi trở lại nhà kính, cô thấy mẹ mình nằm bất động trên vũng máu.

Katherine chạy nhào tới bà, quỳ xuống, ôm chặt xác mẹ trên tay.

Thời gian trôi không biết lâu hay chóng, cuối cùng Katherine nghe thấy tiếng nổ xa xăm trong rừng. Cuối cùng, cửa nhà kính cũng bật mở, và anh trai cô. Peter, lao vào, mắt trừng trừng, tay vẫn cầm khẩu súng. Khi nhìn thấy Katherine nức nở, tay ôm chặt xác bà mẹ đã bất động, gương mặt ông rúm lại đau đớn. Tiếng thét vang động khắp nhà kính là thứ âm thanh mà Katherine Solomon sẽ không bao giờ quên.


trước sau
Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!