Chương 127
Trụ sở CIA ở Langley. Nola Kaye theo chuyên gia an ninh hệ thống Rick Parrish băng qua khoảnh sân giữa đầy ánh trăng, gió lạnh làm cô rùng mình.Rick đưa mình đi đâu đây?Họ đã chặn đứng việc phát tán đoạn phim video về Hội Tam điểm, ơn Chúa, nhưng Nola vẫn cảm thấy không an tâm. Tệp tin lọc nội dung tại phân vùng của giám đốc CIA vẫn là một bí ẩn, nó cứ bám riết lấy cô. Sao và cô có cuộc thẩm vấn vào sáng mai, và Nola muốn tìm biết tất cả sự thật. Cuối cùng, cô gọi Rick Parrish, yêu cầu anh ta giúp đỡ. Giờ đây, theo Rick ra ngoài tới nơi nào chưa rõ, Nola không sao ngăn được những cụm từ kỳ quái cứ gợn lên trong trí:Vị trí bí mật dưới lòng đất… đâu đó ở Washington D.C., thì toạ độ phát hiện ra một cánh cổng cổ xưa dẫn tới… cảnh báo rằngkim tự tháp chứa đựng những hậu quả nguy hiểm… giải mã cái đồ hình được chạm khắc này để hé mở…- Chắc cô cũng nhất trí với tôi - Parrish nói trên đường đi - gã hacker truy nguồn mấy từ khoá nọ chắc đang tìm kiếm thông tin về Kim tự tháp Tam điểm.Hiển nhiên, Nola nghĩ.- Tuy nhiên, gã ta lại vấp ngay vào một vấn đề liên quan đến bí mật của Hội Tam điểm mà tôi cho rằng gã không lường trước được.- Ý anh là sao?- Nola, cô biết giám đốc CIA tài trợ cho một diễn đàn thảo luận nội bộ để các nhân viên của Cục chia sẻ ý tưởng về tất cả mọi thứ chứ?- Dĩ nhiên.Trong khi tạo ra một nơi an toàn cho nhân viên Cục Tình báo Trung ương chuyện phiếm trên mạng về đủ loại chủ đề, các diễn đàn cũng đồng thời cung cấp cho giám đốc CIA một loại cổng ảo để chặn chính những nhân viên ấy.- Các diễn đàn của giám đốc đều nằm trên phân vùng riêng. Để nhân viên ở mọi cấp độ truy cập bình thường, người ta đặt các diễn đàn đó bên ngoài tường lửa mật của giám đốc.- Ý anh là sao? - Nola gặng hỏi.Vừa lúc ấy họ vòng qua một góc rẽ gần quán cà phê của Cục, Parrish liền trỏ vào bóng tối:Nói tóm lại… thì đấy.Nola ngước nhìn lên. Trước mặt họ, bên kia khoảnh sân, là một tác phẩm điêu khắc kim loại đồ sộ lấp lánh dưới trăng. Tấm điêu khắc có tên Kryptos này thực tế còn vượt xa những tác phẩm danh tiếng nhất trong số hơn năm trăm tác phẩm nghệ thuật nguyên bản, vốn là niềm tự hào của CIA. Kryptos, có nghĩa là “ẩn giấu” theo tiếng Hy Lạp, là tác phẩm của nghệ thuật gia James Sanborn, nay đã trở thành một huyền thoại tại trụ sở CIA. Đó là một bảng đồng hình chữ S rất lớn, dựng đứng trên gờ như một bức tường kim loại uốn cong. Bề mặt rộng rãi của nó khắc gần hai nghìn chữ cái sắp xếp thành một bức mật mã rắc rối. Cứ như thể vẫn chưa đủ khó hiểu, người ta còn cẩn thận bố trí nhiều thành tố điêu khắc khác quanh bức tường chữ S đã mã hoá ấy, chẳng hạn mấy phiến đá hoa cương đặt theo những góc độ kỳ quái, một ký hiệu la bàn, một viên đá nam châm, và một bức điện mã Morse nói đến “trí nhớ sáng láng” và “thế lực bóng tối”. Hầu hết những người hâm mộ đều tin rằng các thành tố này là đầu mối tiết lộ cách giải mã bức điêu khắc. Kryptos là nghệ thuật… đồng thời là một ẩn số. Việc cố gắng phá giải bí mật mã hoá của Kryptos đã, trở thành nỗi ám ảnh đối với giới chuyên gia mật mã cả trong và ngoài CIA, vài năm trước, họ khám phá được phần nào nội dung mật mã, và tạo nên một tin thời sự gây xôn xao cả Liên bang. Đến nay, mặc dù đại bộ phận mật mã của Kryptos vẫn nằm trong vòng bí ẩn, nhưng những phần đã phá giải lại kỳ lạ đến mức khiến bức điêu khắc càng thêm bí hiểm. Nó nhắc đến những địa điểm dưới lòng đất, đến cánh cổng dẫn tới ngôi mộ cổ, đến những kinh độ và vĩ độ… Nola vẫn còn nhớ nội dung của mấy phần đã được giải mã; Thông tin được thu thập và truyền xuống lòng đất tới một địa điểm chưa biết… Nó hoàn toàn vô hình… sao có thể như vậy… họ sử dụng các từ trường trái đất…Cô vốn không chú ý lắm đến Kryptos và cũng chẳng quan tâm xem nó đã được giải mã hết hay chưa. Nhưng bây giờ cô muốn có câu trả lời.- Tại sao anh lại dẫn tôi đi xem Kryptos?Parrish mỉm cười bí hiểm, và điệu bộ moi trong túi ra một tờ giấy gấp gọn.- Voilà, tài liệu khó hiểu mà cô quan tâm đấy. Tôi đã truy cập được nội dùng hoàn chỉnh.Nola nhảy dựng lên.- Anh chui được vào phân vùng mật của giám đốc à?- Không. Đó chính là ý tôi định nói lúc nãy. Xem đi! - Anh ta đưa cho cô tờ giấy.Nola, giật lấy và mở ra xem. Trông thấy dòng tiêu đề CIA ở đầu trang, cô nghiêng đầu ngạc nhiên.Đây không phải là tài liệu mật. Thậm chí không hạn chế. KHU THẢO LUẬN CỦA NHÂN ViêN: KRYPTOSLƯU TRỮ NÉN: MẠCH #2456282.5 Ở đây, cả loạt đầu mục nhập dữ liệu đã được nén vào nguyên một trang giấy để lưu trữ hiệu quả hơn.- Tài liệu chính của cô - Rick nói - là một dạng mật mã đề cập đến Kryptos.Nola xem lướt cho tới khi nhận ra một câu cò chứa cụm từ khoá quen thuộc. Jim, bức điêu khắc cho biết nó đã được truyền tới mộtvị trí bí mật DƯỚI LÒNG ĐẤT nơi cất giấu thông tin.- Văn bản này lấy từ diễn đàn Kryptos trực tuyến của giám đốc, - Rick giải thích - Diễn đàn đã mở được vài năm rồi. Có hàng nghìn đầu mục đưa lên mạng, và tôi không ngạc nhiên khi mộttrong số đó hình như có chứa tất cả các từ khoá.Nola lướt tiếp xuống dưới và nhận ra một đầu mục khác có chứa các từ khoá. Cho dù Mark nói phương vị của mật mã chỉ rõ mộtđịa điểm đâu đó ở WASHINGTON D.C.: thì toạ độanh ấy sử dụng cũng lệch 1 độ - về cơ bản Kryptoschỉ ra phía sau. Parrish bước lại gần Kryptos và đưa tay xoa khắp lượt những chữ cái bí ẩn. Mật mã này hầu như vẫn chưa được phá giải, rất nhiều người nghĩ rằng thông điệp trên đây có thể liên quan đến các bí ẩn cổ xưa của Hội Tam điểm. Nola sực nhớ lại những lời đồn đại về mối liên hệ giữa Hội Tam điểm và Kryptos. Cô vốn không lưu tâm đến những đối tượng quá khích, song khi nhìn lại các tác phẩm điêu khắc được bố trí quanh toà nhà, cô nhận ra rằng Kryptos chính là một biểu hình, tức một mật mã được chia thành nhiều phần, giống Kim tự tháp Tam điểm.Kỳ quái.Chỉ thoáng chốc. Nola nhận ra Kryptos là một Kim tự tháp Tam điểm hiện đại, một mật mã gồm nhiều phần làm bằng các chất liệu khác nhau, mỗi phần đóng một vai trò.- Anh có cho rằng Kryptos và Kim tự tháp Tam điểm che giấu cùng một bí mật không?- Chịu! - Parrish nhìn Kryptos vẻ ngán ngẩm - Tôi ngờ rằng chẳng bao giờ chúng ta biết hết toàn bộ thông điệp, trừ phi có ai đó đủ sức thuyết phục giám đốc mở két an toàn của ông ấy và hé lộ lời giải.Nola gật đầu, sực nhớ lại nhiều chuyện liên quan. Khi dựng công trình điêu khắc này, Sanborn gửi kèm theo nó một phong bì dán kín chứa lời giải hoàn chỉnh cho các mật mã. Giám đốc CIA hồi ấy là William Webster đã tiếp nhận lời giải niêm phong và khoá kín nó trong két an toàn tại văn phòng mình. Bao nhiêu năm qua, chắc chắn tài liệu vẫn nằm nguyên ở đó, được chuyển giao lần lượt từ giám đốc này sang giám đốc khác.Có điều lạ là, khi nhớ đến William Webster, Nola lại hồi tưởng một phần nội dung đã được giải mã của KryptosĐƯỢC CHÔN LÂU ĐÂU ĐÓ NGOÀI KIA.AI BIẾT VỊ TRÍ CHÍNH XÁC?CHỈ CÓ WW. Chẳng ai rõ cái gì được chôn giấu ngoài kia, nhưng đa số đều tinWW là chỉ William Webster. Mặc dù chưa bao giờ thật sự bận tâm đến câu chuyện, Nola cũng từng nghe đồn rằng thực ra hai chữ viết tắt này ám chỉ William Whiston, chuyên gia thần học của Hiệp hội Hoàng gia.Rick lại lên tiếng.- Phải thừa nhận rằng tôi không quan tâm mấy đến giới nghệ sĩ, nhưng tôi nghĩ cái tay Sanborn này quả là một thiên tài. Tôi vừa xem trên mạng dự án Máy chiếu Cyrillic của ông ta. Nó trình chiếu những chữ cái tiếng Nga to tướng lấy từ một tài liệu của KGB về kiểm soát trí não. Quái đản?Nola không còn lắng nghe nữa. Cô chăm chú xem tờ giấy, và tìm thấy cụm từ khoá thứ ba trong một đầu mục nhập dữ liệu khác. Phải, toàn bộ phần đó đúng nguyên văn nhật kýcủa một nhà kháo cổ học nổi tiếng, kể về lúc ôngđào xuống và phát hiện ra một CÁNH CỔNGCỔ XƯA dẫn tới mộ Tutankhamen. Nola biết nhà khảo cổ học được trích dẫn trên Kryptos chính là nhà Ai Cập học lừng danh Howard Carter. Đầu mục nhập dữ liệu tiếp theo nhắc hẳn đến tên ông ấy. Tôi vừa xem lướt trên mạng phần cònlại những ghi chép hiện trường của Carter.Hình như ông ấy đã tìm thấy một thẻất sét cảnh báo rằng KIM TỰ THÁP chứađựng những hậu quá nguy hiểm cho bất kỳai phá rối sự bình yên của pharaoh.Một lời nguyền! Chúng ta có nên lo lắng không nhỉ?Nola cau mày.Vì Chúa, Rick, phần nói về kim tự tháp của thằng ngốc này không đúng. Tutankhamen không yên nghỉ trong kim tự tháp. Ông được an táng tại Thung lũng các Vua. Bọn chuyên gia giải mã không xem kênh Discovery à?Parrish nhún vai.- Dân kỹ thuật mà.Nola đọc cụm từ khoá cuối cùng. Các bạn, các bạn biết tôi không phảilà một nhà lý luận theo thuyết âm mưu,nhưng Jim và Dave tốt hơn cả là nên giảimã cái ĐỒ HÌNH ĐƯỢC CHẠM KHẮCnày để hé mở bí mật cuối cùng của nótrước khi thế giới chấm hết vào năm 2012…Chào nhé!- Nói gì thì nói, - Parrish nói - tôi nghĩ cô nên tìm hiểu về diễn đàn Kryptos trước khi buộc tội giám đốc CIA chứa chấp tài liệu mật về một truyền thuyết Tam điểm cổ xưa. Tôi đồ rằng một nhân vật quyền thế như giám đốc CIA không có thời gian dành cho loại công việc đó đâu. Nola nhớ đến đoạn video về Hội Tam điểm và hình ảnh các, nhân vật có ảnh hưởng tham gia vào nghi lễ cổ xưa. Nếu Rick biết…Nói cho cùng, cô hiểu, dẫu Kryptos hé mở bất kỳ điều gì thì bức thông điệp cũng đều có những hàm ẩn huyền bí. Cô ngước nhìn tác phẩm nghệ thuật đang toả sáng lấp loá, nhìn bức mật mã ba chiều đứng thầm lặng giữa khuôn viên của một trong những cơ quan tình báo hàng đầu quốc gia, và tự hỏi liệu có bao giờ nó tiết lộ bí mật tối hậu của nó hay không. Khi cùng Rick quay trở vào trong, Nola không khỏi mỉm cười.Nó được chôn giấu đâu đó ngoài kia.Chương 128Đúng là điên rồ!Chiếc Escalade phóng vun vút về phía nam, dọc theo đường phố vắng hoe. Robert Langdon bị bịt mắt nên chẳng trông thấy gì. Trên chỗ ngồi bên cạnh anh, Peter Solomon vẫn một mực im lặng.- Ông ấy đưa mình đi đâu thế nhỉ?Sự tò mò của Langdon là một dạng pha trộn giữa thích thú và e ngại. Trí tưởng tượng của anh hoạt động ráo riết để cố gắng chắp nối các tình tiết với nhau. Peter vẫn kiên định giữ vững quan điểm của ông. Từ Còn Thiếu? được chôn dưới chân thang, còn trên đầu cầu thang là một tảng đá chạm khắc rất lớn? Nghe thật hoang đường.Tâm trí Langdon vẫn quan quanh tảng đá khắc… Bảy biểu tượng, theo như anh còn nhớ, chẳng hợp thành ý nghĩa gì cả.ẢNHThước vuông thợ nề, biểu tượng của lòng trung thực và sự thật.Hai chữ cái Au: ký hiệu hoá học của nguyên tố vàng.Sigma: chữ cái S trong tiếng Hy Lạp, ký hiệu toán học của tổng các thành phần.Kim tự tháp: biểu tượng Ai Cập cho người vươn lên thiên đàng.Delta: chữ cái D trong tiếng Hy Lạp, biểu tượng toán học của sự thay đổi.Thuỷ ngân: mô tả bằng biểu tượng giả kim cổ nhất của nó.Hàm vĩ xà: tượng trưng cho chỉnh thể và nhất thể.Solomon khăng khăng bảo rằng bảy biểu tượng này là một “thông điệp, Nếu đúng thế thì đó là một thông điệp mà Langdon không tài nào đọc được. Chiếc Escalade đột ngột giảm tốc và ngoặt phải rất gấp, lao lên một bề mặt khác hẳn, như thể vào lối xe chạy hoặc đường dẫn. Langdon ngẩng mặt, chăm chú lắng nghe xem có nhận biết được mình đang ở đâu không. Xe mới chạy gần mười phút, dù đã cố ngầm theo dõi nhưng anh vẫn mau chóng mất phương hướng. Theo mọi dấu hiệu anh thu nhận được, thì họ đang quay trở về Thánh điện Hội Tam điểm.Chiếc Escalade dừng lại. Langdon nghe tiếng cửa sổ xe hạ xuống.- Đặc vụ Simkins, CIA, - tài xế của họ báo danh - Tôi nghĩ chắc anh biết chúng tôi đến.- Vâng, thưa ông - giọng một quân nhân nhanh nhẹn đáp - Giám đốc Sato đã gọi điện trước. Chờ một chút để tôi bỏ rào chắn an ninh.Langdon lắng nghe, càng lúc càng bối rối. Anh có cảm giác mình đang tiến vào một căn cứ quân sự. Chiếc xe tiếp tục di chuyển theo một cung đường lượn êm khác thường, Langdon mò mẫm xoay đầu về phía Solomon.- Chúng ta đang ở đâu thế, Peter? - anh gặng hỏi.- Chớ gỡ khăn bịt mắt - Giọng Peter kiên quyết.Chiếc xe tiếp tục chạy một đoạn ngắn và lại giảm tốc để rồi dừng hẳn. Simkins tắt máy. Có thêm vài tiếng nói. Quân nhân. Ai đó đòi xem giấy tờ tuỳ thân của Simkins. Anh chàng đặc vụ chui ra và nói với mấy người kia bằng giọng rất nhỏ. Cánh cửa bên phía Langdon đột ngột bật mở. Những bàn tay khỏe mạnh giúp anh chui ra khỏi xe. Không khí khá lạnh, gió thổi mạnh. Solomon đến bên cạnh Langdon.- Robert, cứ để đặc vụ Simkins dẫn cậu vào trong nhé.Langdon nghe tiếng chìa kim loại tra vào ổ khoá… sau đó là tiếng ken két khi cánh cửa sắt nặng nề mở ra. Nghe chừng là một gian buồng cũ. Họ đang đưa mình đi chỗ quái nào thế này?Simkins dắt Langdon về hướng cửa sắt. Họ bước qua ngưỡng cửa.- Đi thẳng, Giáo sư.Xung quanh chìm vào tĩnh lặng. Im phăng phắc. Vắng tanh vắng ngắt. Không khí như được khử trùng. Simkins và Solomon kèm hai bên Langdon, dẫn anh dò dẫm đi xuống một hành lang, âm thanh phát ra ở đây đều có tiếng dội lại. Qua đế giày mềm. Langdon có cảm giác nền nhà bằng đá. Anh giật nảy mình khi cánh cửa sắt sập mạnh sau lưng, khoá cũng vào ổ. Mồ hôi rịn ra dưới lớp băng bịt mắt, Langdon chỉ muốn giật tung nó đi.Rồi họ dừng bước. Simkins buông tay Langdon. Một tràng bíp bíp điện tử vang lên, tiếp theo là tiếng ầm ầm bất ngờ ở ngay trước mặt, Langdon đoán chắc là một cánh cửa an ninh đang tự động mở ra.- Ông Solomon, hai ông tự đi tiếp nhé. Tôi sẽ đợi ở đây, - Simkins nói - Cầm lấy đèn pin của tôi này.- Cảm ơn anh, - Solomon đáp - Chúng tôi sẽ đi nhanh thôi.Đèn pin à? Tim Langdon bắt đầu đập thình thịch.Peter nắm lấy cánh tay Langdon và tiến lên phía trước.- Đi theo tôi nào, Robert.Họ di chuyển thật chậm qua một ngưỡng cửa khác. Cánh cửa an ninh lại đóng sập phía sau.Peter dừng chân.- Có gì không ổn à?Langdon đột nhiên cảm thấy buồn nôn và mất thăng bằng.- Em cần tháo bỏ băng bịt mắt.- Chưa được, chúng ta sắp tới nơi rồi.- Sắp tới đâu? - Langdon nghe trong dạ mỗi lúc một trĩu nặng.- Tôi đã bảo là đưa cậu tới chỗ cầu thang dẫn xuống Từ Còn Thiếu mà.- Peter, không phải chuyện đùa đâu.- Tôi không đùa. Nó giúp mở mang đau óc cậu đấy, Robert ạ. Nó sẽ nhắc nhở cậu rằng trên đời có rất nhiều bí ẩn mà chính cậu thậm chí chưa hề để mắt tới. Trước khi đi tiếp, tôi muốn nhờ cậu một việc.- Tôi muốn cậu tin… chỉ một lát thôi… tin vào truyền thuyết. Hãy tin rằng cậu sắp tận mắt nhìn thấy một cầu thang xoáy ốc dài hàng trăm thước chạy sâu xuống một trong những kho báu vĩ đại nhất mà thất lạc đã lâu của nhân loại.Langdon phát chóng mặt. Anh rất muốn tin người bạn quý của mình, nhưng không thể.- Còn xa lắm không? - Dải vải nhung bịt mắt đã đẫm mồ hôi.- Không. Chỉ vài bước chân nữa thôi. Qua cánh cửa cuối cùng. Tôi mở nó ngay đây.Solomon buông anh ra một lát, thấy người chao đảo, đầu nhẹ hẫng, Langdon loạng choạng quờ tay tìm chỗ bám. Peter nhanh chóng trở lại bên anh. Một cánh cửa tự động nặng nề rít lên trước mặt họ. Peter nắm cánh tay Langdon và tiến lên phía trước.Đường này.Họ nhích qua một ngưỡng cửa nữa, và cánh cửa lại đóng kín phía sau.Lặng yên. Lạnh giá. Langdon lập tức cảm thấy rằng nơi này, cho dù nó là ở đâu, cũng chẳng hề liên quan đến cái thế giới ở phía bên kia những cánh cửa an ninh. Không khí ẩm ướt và lạnh lẽo như một nấm mồ. Âm thanh vang lên thì trầm trầm và tù túng. Nỗi sợ giam cầm lại trào lên.- Vài bước chân nữa thôi - Solomon dẫn anh dò dẫm vòng qua một chỗ rẽ và đặt anh đứng thật ngay ngắn. Cuối cùng, ông bảo - Gỡ băng bịt mắt ra.Langdon túm vội dải băng nhung và dứt tung khỏi mặt mình. Anh nhìn xung quanh để xem mình đang đứng ở đâu, nhưng không nhìn thấy gì cả. Anh dụi mắt. Vẫn mù tịt.- Peter, tối như hũ nút ấy!- Phải, tôi biết. Tiến thẳng lên trước. Có lan can đấy. Nắm lấy!Langdon sờ soạng trong bóng tối và tìm thấy một lan can sắt.- Giờ nhìn xem!Peter sờ soạng gì đó, và đột nhiên luồng sáng đèn pin chói loà xuyên qua bóng tối, chiếu xuống nền nhà. Langdon chưa kịp ngó nghiêng xung quanh thì Solomon đã hướng đèn pin ra mé ngoài lan can và rọi thẳng xuống dưới.Langdon nhìn sững vào đường hầm không đáy vừa hiện ra trước mắt… đó là một cầu thang xoáy vô tận dẫn sâu xuống lòng đất.Lạy Chúa! Đầu gối anh gần như nhũn ra, và anh phải bám chặt lấy lan can. Cầu thang này là loại xoắn trôn ốc truyền thống, trong tầm ánh sáng của ngọn đèn pin, Langdon nhìn thấy ít nhất ba mươi chiếu nghỉ hạ dần xuống lòng đất, chưa kể phần khuất trong bóng tối. Mình không nhìn thấy đáy đâu cả?- Peter… - anh lắp bắp - Sao lại có nơi như thế này chứ!- Lát nữa tôi sẽ dẫn cậu xuống đáy cầu thang, nhưng trước đó, cậu cần trông thấy một thứ khác.Quá choáng váng đến nỗi không phản đối nổi. Langdon để Peter dẫn mình rời khỏi cầu thang và băng qua gian phòng kỳ quái. Peter chĩa đèn pin xuống sàn đá mòn nhẵn dưới chân họ, Langdon không tài nào nhận biết hết không gian xung quanh… ngoại trừ chi tiết là nó rất nhỏ.Một gian phòng đá bé xíu.Họ nhanh chóng đi sang bức tường đối diện, trên tường gắn một ô vuông thuỷ tinh. Langdon đoán là ô cửa sổ mở sang căn phòng sát vách, nhưng từ chỗ đứng hiện tại, anh thấy mé bên kia tối mù mù.- Đi nào, - Peter nói - Xem một chút…- Có gì ở đó vậy? - Langdon chợt nhớ tới Gian phòng Suy niệm dưới đáy Điện Capitol, nhớ cả việc anh đã tin, dù chỉ nhất thời, rằng nơi đó chứa cánh cổng dẫn tới một cái hang ngầm khổng lồ.- Xem nhé. Robert - Solomon nhích lên phía trước - Và trụ cho vững, bởi vì cảnh tượng này sẽ khiến cậu sốc đấy.Chẳng hiểu nổi mình sắp nhìn thấy gì, Langdon tiến về phía ô cửa kính. Khi anh tới gần cánh cổng. Peter tắt đèn pin, khiến cả gian buồng nhỏ bé chìm trong bóng tối hoàn toàn.Khi mắt đã thích nghi, Langdon bắt đầu sờ soạng, hai tay anh lần tìm bức tường, tìm ô kính, mặt anh nhích lại gần khung cửa trong suốt.Phía trước vẫn là bóng tối.- Anh ghé sát hơn nữa… áp hẳn mặt vào kính.Và anh đã nhìn thấy.Cơn chấn động và chới với tràn qua người Langdon, chạy suốt vào trong và làm chiếc la bàn nội thể của anh lộn ngược. Anh gần như ngã ngửa khi trí não căng ra để tiếp nhận cảnh tượng bất ngờ ngay trước mắt. Trong những giấc mơ dị thường nhất. Robert Langdon cũng chẳng bao giờ hình dung nổi hiện thực đang nằm ở mé ngoài tấm kính.Quả là một cảnh tượng tuyệt vời.Trong bóng tối, một cột sáng trắng rực rỡ toả rạng như món đồ trang sức lộng lẫy.Langdon đã hiểu ra tất cả: rào chắn trên lối vào… lính gác ở cửa chính… cổng sắt nặng nề bên ngoài… cửa tự động rền rĩ mỗi khi đóng mở… cảm giác nặng trịch trong dạ dày… cảm giác nhẹ hẫng trong đầu… và giờ là một gian phòng bằng đá nhỏ xíu.- Robert - Peter thì thầm phía sau anh - nhiều khi thay đổi góc độ chính là yếu lĩnh để nhìn thấy ánh sáng. Không nói lên lời, Langdon sững sờ nhìn qua cửa sổ. ánh mắt anh du ngoạn trong bóng tối của trời đêm, băng qua hơn một dặm đường trong không gian trống trải, rồi hạ thấp xuống… thấp xuống nữa… qua bóng tối… cho tới khi dừng lại trên đỉnh mái vòm màu trắng được chiếu sáng rực rỡ của Điện Capitol. Chưa bao giờ Langdon ngắm Điện Capitol từ góc độ này. Anh đang lơ lửng trên độ cao 166,5 mét, tại đỉnh cột tháp Ai Cập vĩ đại của nước Mỹ. Đêm nay, lần đầu tiên trong đời, anh theo cầu thang máy lên tới vọng lâu nhỏ xíu… trên đỉnh Đài tưởng niệm Washington.Chương 129Robert Langdon đứng trước khuôn cửa thuỷ tinh, ngây ngất chiêm ngưỡng mãnh lực của cảnh quan bên dưới. Được đưa lên cao hàng trăm thước mà không biết trước, giờ đây anh đang ngắm nhìn một trong những khung cảnh ấn tượng nhất từng thấy trong đời. Mái vòm toả sáng của Điện Capitol nổi bật như một trái núi ở đầu phía đông Công viên Quốc gia. Hai bên toà nhà là hai hàng đèn song song chạy vươn dài về phía anh… Kế đó là phần mặt tiền được chiếu sáng của các bảo tàng Smithsonian - những dấu mốc nghệ thuật, lịch sử khoa học và văn hoá. Tới giờ, Langdon ngạc nhiên nhận ra rằng rất nhiều điều Peter khẳng định có thật… thì trên thực tế quả là sự thật. Đúng là có một cầu thang xoáy dài hàng trăm thước nằm dưới một tảng đá lớn. Cái chóp khổng lồ của cột tháp đang ngự ngay phía trên đầu anh đây, Langdon sực nhớ ra rằng mình đã quên một chi tiết tầm phào xem chừng có ý nghĩa kỳ lạ trong trường hợp này, đó là: chóp Đài tưởng niệm Washington nặng đúng 3.300 pound(102).Lại là con số 33.Gây sửng sốt hơn nữa là chi tiết sau đây: đỉnh cao nhất của chóp, tức thiên đỉnh của cột tháp, có đội một đầu mút bằng nhôm, nhỏ xíu và sáng loáng, vào thời hoàng kim của nó, nhôm là thứ kim loại quý giá chẳng kém gì vàng. Đầu mút sáng chói ấy chỉ cao khoảng 0,3 mét, kích cỡ đúng bằng Kim tự tháp Tam điểm. Kỳ lạ thay, kim tự tháp nhôm này mang một dòng chữ khắc nổi tiếng:Laus Deo. Langdon đột nhiên hiểu ra. Đây chinh là bức thông điệp đích thực của phần đế kim tự tháp đá.Bảy biểu tượng là một hình thức chuyển tựlMột dạng mật mã đơn giản nhất.Các biểu tượng ám chỉ những chữ cái.Thước vuông thợ nề - LNguyên tố vàng – AUChữ cái Hy Lạp Sigma = Schữ cái Hy Lạp Delta – DThuỷ ngân giả kim – EHàm vĩ xà - O- Laus Deo, - Langdon thì thầm. Cụm từ tiếng Latin nổi tiếng này mang nghĩa “đội ơn Chúa”, được khắc trên đầu mút Đài tưởng niệm Washington bằng những chữ cái viết tay chỉ cao khoảng 2,5 centimet. Hiện ra trọn vẹn, nhưng chẳng ai nhìn thấy.Laus Deo.- Đội ơn Chúa. - Giọng Peter vang lên đằng sau Langdon. Ông bật đèn sáng trong buồng - Mật mã cuối cùng của Kim tự tháp Tam điểm.Langdon quay lại, người bạn của anh đang cười rạng rỡ. Langdon chợt nhớ Peter đã nhắc đến cụm từ “đội ơn Chúa” từ trước, lúc còn ở trong thư viện Tam điểm. Mà mình vẫn không để ý.Langdon phát ớn lạnh khi nhận ra Kim tự tháp Tam điểm huyền thoại đã khéo léo dẫn anh tới đây, tới cột tháp vĩ đại của nước Mỹ, biểu tượng của tri thức bí mật cổ xưa đang vươn lên trời cao ở ngay trái tim đất nước. Với tâm trạng thảng thốt, Langdon bắt đầu di chuyển ngược chiều kim đồng hồ quanh gian phòng vuông nhỏ xíu để rời sang cửa sổ khác.Phía bắc.Qua ô cửa mở ra hướng bắc, Langdon chăm chú ngắm đường nét quen thuộc của toà Bạch Ốc. Anh đưa mắt về phía chân trời, phố 16 như một đường thẳng chạy lên chính bắc về phía Thánh điện Hội Tam điểm.Mình ở chính nam của Heredom.Anh tiếp tục đi quanh gian phòng tới cửa sổ tiếp theo. Nhìn sang hướng tây, mắt Langdon lướt theo chiều dài bể nước hình chữ nhật ở Đài tưởng niệm Lincoln, công trình này xây dựng theo phong cách kiến trúc Hy Lạp cổ điển, lấy cảm hứng từ đền Parthenon ở Athens. Parthenon là đền thờ Athena - nữ thần của những chiến công oai hùng.Annuit Coeptis(103) Langdon nghĩ. Chúa ủng hộ chiến công của chúng ta.Tiếp tục đi tới cửa sổ cuối cùng, Langdon phóng ánh mắt về phía nam, ngang qua vùng nước tối om của Tidal Basin sang Đài tưởng niệm Jefferson toả sáng rực rỡ trong đêm. Đỉnh vòm thoai thoải bên ấy lấy theo mẫu đền Pantheon, ngôi nhà nguyên thuỷ của các vị thần La Mã vĩ đại trong truyền thuyết. Quan sát xong cả bốn mặt, Langdon nghĩ đến những bức không ảnh chụp Công viên Quốc gia mà anh từng xem, bốn “cánh tay” của nó toả ra từ Đài tưởng niệm Washington và chạy về bốn hướng.Mình đang đứng ngay giao lộ của nước Mỹ.Langdon vòng trở lại chỗ Peter. Người bạn vong niên của anh cười tươi.- Chà, Robert, nó đây. Từ Còn Thiếu. Đây là nơi nó được chôn giấu. Kim tự tháp Tam điểm đã dẫn chúng ta tới đây.Langdon sực tỉnh. Anh đã thấy tất cả nhưng lại quên mất Từ Còn Thiếu.- Robert, tôi biết không còn ai đáng tin cậy hơn cậu. Sau một đêm như đêm nay, tôi tin rằng cậu xứng đáng được biết tất cả mọi chuyện. Đúng như lời hứa hẹn trong truyền thuyết, Từ Còn Thiếu quả thực được chôn dưới đáy một cầu thang xoáy - ông ra hiệu về phía cửa cầu thang của đài tưởng niệm.Cuối cùng Langdon cũng trở về với thực tại, nhưng lòng anh ngập tràn băn khoăn.Peter nhanh nhẹn thò tay vào túi và rút ra một món đồ nhỏ.- Cậu còn nhớ thứ này không?Langdon đón lấy cái hộp mà Peter gửi gắm cho anh nhiều năm về trước.- Có nhưng em sợ rằng mình đã không hoàn thành trách nhiệm bảo vệ nó.Solomon cười.- Hẳn đã đến lúc cho nó nhìn thấy ánh sáng ban ngày rồi.Langdon ngắm hộp đá, không hiểu tại sao Peter lại trao nó cho anh.- Đối với cậu thứ này trông giống cái gì? - Peter hỏi.Langdon nhìn ký hiệu 1514 và lục lại ấn tượng đầu tiên của mình khi Katherine mở gói bọc ra.- Một viên đá đặt móng.- Chính xác - Peter xác nhận - Về đá đặt móng, có vài điểm chắc cậu còn chưa rõ. Thứ nhất, khái niệm đặt đá móng bắt nguồn từ Kinh Cựu ước.Langdon gật đầu.- Thánh thi.- Rất đúng. Một viên đá đặt móng đích thực luôn được chôn dưới nền, tượng trưng cho bước đầu tiên đưa toà nhà lên ánh sáng thiên đường.Langdon liếc ra phía Điện Capitol, hòn đá đặt móng của toà nhà ấy được chôn sâu đến mức tới nay các cuộc khai quật cũng không sao tìm ra nó.- Thứ hai - Solomon nói - cũng như cái hộp trên tay cậu, nhiều viên đá đặt móng là những gian hầm nho nhỏ, có khoang rỗng để cất giữ các vật báu bí mật. Nếu muốn, cậu có thể gọi chúng là những lá bùa. Chúng tượng trưng cho niềm hy vọng về tương lai của toà nhà sắp xây dựng.Langdon biết rất rõ truyền thống này. Ngày nay. Hội Tam điểm vẫn đặt những viên đá móng rỗng ruột chứa các đồ vật có ý nghĩa như hộp thời gian, ảnh chụp, tuyên ngôn, thậm chí là tro xương của các yếu nhân.- Tôi nói cho cậu biết điều này là có mục đích rất rõ ràng - Solomon vừa nói vừa đưa mắt về phía cầu thang.- Anh nghĩ Từ Còn Thiếu được chôn trong viên đá móng của Đài tưởng niệm Washington à?- Tôi không nghĩ, Robert ạ. Tôi biết rõ. Từ Còn Thiếu được chôn trong viên đá móng của đài tưởng niệm này vào ngày 4 tháng Bảy năm 1848, trong một nghi lễ Tam điểm hoàn chỉnh.Langdon đăm đăm nhìn ông.- Các bậc tiền bối Tam điểm đã chôn một từ à?Peter gật đầu.- Đúng vậy. Họ hiểu sức mạnh đích thực của thứ họ chôn giấu.Suốt buổi tối, Langdon đã cố bắt tâm trí mình làm quen với nhiều khái niệm lộn xộn, cao siêu… Nào là Bí ẩn cổ xưa, Từ Còn Thiếu, các bí mật của thời đại. Song anh muốn một thứ chắc chắn hơn. Mặc dù Peter khẳng định chìa khoá của vấn đề cất trong một viên đá móng nằm sâu dưới đất, cách họ 166.5 mét. Langdon vẫn thấy khó lòng chấp nhận giả thuyết này. Con người dành cả đời nghiên cứu các bí mật, nhưng cuối cùng vẫn không tiếp cận được sức mạnh họ tưởng là cất giấu trong đó. Langdon vụt nhớ lại bức Melencolia I của Durer, tác phẩm miêu tả một hiền nhân chán chường giữa ngổn ngang các công cụ của những nỗ lực bất thành nhằm khai mở bí mật về thuật giả kim. Chúng ta có thể khám phá nhiều bí mật, nhưng không bao giờ tìm được tất cả các bí mật ấy ở cùng một nguồn.Langdon luôn tin rằng, câu trả lời, nằm rải rác khắp thế giới trong hàng nghìn cuốn sách, được mã hoá trong những trước tác của Pythagoras, Hermes, Heraclitus, Paracelsus và hàng trăm tác giả khác. Câu trả lời bị lãng quên dưới lớp bụi mờ trong những bộ sách về giả kim, thuyết thần bí, ma thuật và triết học. Câu trả lời ẩn náu trong thư viện cổ Alexandria, trên những thẻ đất sét của người Sumer và chữ tượng hình của người Ai Cập.- Peter, xin lỗi anh - Langdon khẽ nói và lắc lắc đầu - Để hiểu được những Bí ẩn cổ xưa thì phải mất cả đời. Em không hình dung nổi một từ thì làm sao chứa được chiếc chìa khoá giải đáp mọi điều.Peter đặt tay lên vai Langdon.- Robert. Từ Còn Thiếu không phải là một từ đâu - ông mỉm cười hiền hậu - Chúng ta gọi nó là “Từ ngữ” chỉ bởi đó là cách gọi của người cổ đại… lúc ban đầu. Chú thích:(102) Cũng giống như đơn vị foot đã có chú thích ở các phần trước, chi hết này liên quan đến nội dung nên người dịch phải giữ nguyên đơn vị pound, không đổi sang kilogram như ở các chi tiết khác. Nguyên tác là “thirty-three hundred pounds”, nhằm nhấn mạnh con số “33”.(103) Annuit coeptis là một trong hai khẩu hiệu bằng tiếng Latin ở mặt trái của Quốc ấn Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Nghĩa đen của nó là “Ngài chấp thuận chiến công của chúng ta”