Văn sĩ vẫn muốn nói tiếp, bị một thanh niên áo trắng cùng bàn ngắt lời: “Lời huynh thậm sai, người chém đại thần nước Vệ không phải là thế tử Dự. Khi nước Vệ bị diệt, thế tử được lệnh Trần vương thống lĩnh Trần quân giám hộ Vệ quốc, không may nhiễm bệnh, đành trở về Hạo thành dưỡng bệnh. Là tể tướng Doãn Từ đã tiến cử diên uý Công Dương Hạ làm thích sử, thay thế tử giám quốc. Công Dương Hạ vốn hiểm độc, muốn nhanh chóng lập công với Trần vương, vừa đến đất Vệ đã giết những cựu thần cuối cùng của Vệ vương thất có khả năng phản kháng, giết gà dọa khỉ, lại đuổi dân chúng ở Lịch thành và Yến thành ngay gần kinh đô, đưa dân nước Trần đến ở, khiến dân chúng hai thành lâm vào cảnh ly tán không nhà không cửa. Lại cho xây thích sử phủ nguy nga, thế tử lúc đó đang bệnh nặng, hoàn toàn không hay biết. Đến khi bình phục, thế tử chỉnh đốn quốc sự, chẳng phải đã lập tức phi ngựa đến Vệ quốc, ra lệnh chém Công Dương Hạ trước thích sử phủ còn chưa kịp hoàn tất, bêu đầu trước môn thành kinh đô nước Vệ, lấy đó để tạ tội với dân chúng hay sao? Bây giờ dân chúng nước Vệ đều coi thế tử như phụ mẫu tái sinh, nước Vệ diệt vong chưa quá nửa năm, dân chúng đã cam tâm tình nguyện quy thuận nước Trần, hai chữ hiền đức, chẳng lẽ thế tử không xứng?”.
Văn sĩ kia nói: “Chẳng qua là mượn dao giết người, đầu tiên là mượn tay Công Dương Hạ, làm hết việc mình muốn nhưng không thể làm, sau đó trở mặt giết người ta mà thiên hạ vẫn phải cảm ơn đại ân đại đức, quả nhiên là thế tử hiền đức!”.
Mấy người cùng bàn với chàng trai trẻ đập bàn đứng dậy, “Ông…”. Chủ quán thấy tình hình không ổn, vội vàng chạy đến can: “Xin đừng bàn quốc sự, xin đừng bàn quốc sự”.
Quân Vỹ gắp dưa muối vào bát tôi: “Nói suy nghĩ của muội xem?”.
Tôi nghĩ một hồi, cảm thấy chẳng có suy nghĩ gì, chỉ là thấy lạ về chuyện trong Vệ vương thất vẫn còn những người gọi là trung thần.
Quân Vỹ nhìn Bách Lý Tấn ngồi xổm trên ghế, mở miệng định nói, có lẽ cảm thấy một số chuyện không nên nói ra trước mặt người ngoài. Đắn đo một hồi, cuối cùng cúi đầu tiếp tục húp cháo. Tôi đoán Quân Vỹ lo lắng tôi vẫn nhớ mình là công chúa nước Vệ, sẽ để bụng, coi Tô Dự là kẻ thù, định hành thích báo thù.
Nhưng quả thật tôi không có ý nghĩ đó, cảm thấy để Quân Vỹ yên lòng, tôi vừa khều một sợi củ cải trong dưa muối, vừa thong thả nói: “Nếu là Tô Dự, chắc muội cũng làm như vậy, minh quân thánh chủ thời loạn phải là người xảo quyệt hung bạo như hổ, hiền đức chỉ để cho thiên hạ xem, chỗ nào cần hiền đức thì tỏ ra hiền đức để thiên hạ nhìn thấy là được rồi”.
Bách Lý Tấn không biết từ lúc nào đã buông chân xuống, ngồi ngay ngắn trên ghế góp chuyện: “Theo cô nói, Tô Dự làm nhiều việc như vậy chỉ là để tạo một hình ảnh hiền đức với thiên hạ?”.
Tôi lắc đầu: “Nếu đúng vậy, anh ta không phải là hiền đức, mà là rỗi việc. Chẳng phải Công Dương Hạ đã giết hết cựu thần của Vệ vương thất rồi sao? Sau đó nước Vệ đã không còn hy vọng phục quốc nữa, thật đáng chúc mừng. Công Dương Hạ đã di chuyển một bộ phận dân chúng nước Trần sang sinh sống ở hai thành Lịch, Yến ngay gần kinh đô nước Vệ. Những người đó bình thường làm ruộng sinh sống, khi nước Vệ xảy ra binh biến có thể trở thành lực lượng tại chỗ rất hữu hiệu, khỏi phải tốn kém điều binh từ nước Trần đến...”.
Bách Lý Tấn tỏ ra ngạc nhiên. Tôi nghĩ phải lấy ví dụ chứng minh để anh ta dễ hiểu, nghĩ một lát nói tiếp: “Cũng giống như các vị đến nước khác mở lầu xanh, mang rất nhiều cô gái đến, nhưng luật nước đó lại quy định chỉ vào dịp lễ tết mới được kinh doanh lầu xanh, như vậy các vị hàng ngày phải bỏ tiền nuôi các cô gái đó rất tốn kém, nếu chia cho họ ít ruộng, để họ tự trồng cấy, nuôi thân, vậy chẳng phải các vị sẽ giảm rất nhiều chi phí sao?”.