Bà Ferrars qua đời đêm ngày 16, rạng sáng ngày 17 tháng Chín. Một ngày thứ Năm. Tôi được cử đến hiện trường đúng tám giờ sáng thứ Sáu ngày 17. Khi ấy đã quá muộn, chẳng thể làm gì được nữa. Bà ấy đã mất được vài giờ.
Tôi về đến nhà lúc hơn chín giờ một chút. Tra khóa mở cửa, tôi cố ý nán lại vài phút ngoài hành lang, chậm rãi treo nón và chiếc áo bành mỏng mà tôi đã sáng suốt khoác theo, phòng hờ cái giá buốt của một buổi sáng mùa thu. Thú thực là tâm trạng của tôi khi ấy rất ngổn ngang và bồn chồn. Lúc ấy, tôi không biết mấy tuần sau đó sẽ xảy ra chuyện gì. Quả thực tôi không hay biết gì. Nhưng linh tính mách bảo tôi rằng thời gian sắp tới hẳn sẽ lắm sóng gió.
Phòng ăn bên trái tôi vang lên tiếng ly tách va vào nhau lách cách, xen vào đó là giọng đằng hắng khô khốc của Caroline, chị gái tôi.
“James đó hả em?” Chị vọng ra.
Câu hỏi thừa, vì còn ai vào đây được nữa? Thú thực, chính vì bà chị Caroline mà tôi phải do dự đứng ngoài. Kipling* kể rằng phương châm sống của họ nhà chồn hương là: “Ra ngoài và tìm tòi.” Nếu Caroline có thêm một cái bờm nữa thì tôi hẳn sẽ liên tưởng ngay đến một con chồn hương hung hăng, vế đầu của phương châm trên có thể lược bỏ. Caroline có khả năng chỉ ngồi yên một chỗ trong nhà mà vẫn nắm được cả tá thông tin. Chẳng hiểu chị ấy làm thế nào. Tôi đồ rằng chính những người giúp việc và giao hàng đã giúp bà chị của tôi gầy dựng được Cục Tình báo này. Nếu Caroline có bước ra khỏi nhà, thì đó không phải để thu thập thông tin, mà là để lan truyền nó. Và trong lĩnh vực truyền bá này, Caroline cũng chứng tỏ là một chuyên gia siêu hạng.
Kipling, tên đầy đủ là Rudyard Kipling (1865-1936), là tác giả truyện thiếu nhi kinh điển Chuyện rừng xanh, trong đó nổi tiếng nhất có lẽ là câu chuyện Rikki-Tikki-Tavi về một chú chồn hương anh hùng cùng tên. Kipling được trao giải Nobel Văn chương năm 1907.
Cũng vì thói xấu trứ danh này của chị ấy nên tôi cứ ngần ngà ngần ngừ chưa vào. Nếu tôi có hé lộ với Caroline bất kỳ điều gì về cái chết của bà Ferrars thì trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ tới, cả làng này cũng sẽ biết, vốn là người làm việc chuyên nghiệp, tôi dĩ nhiên luôn cố gắng cẩn thận lời ăn tiếng nói. Vì vậy tôi đã tập cho mình thói quen kín mồm kín miệng nhất có thể trước mặt chị gái mình. Thường thì đằng nào chị ấy cũng sẽ nghe ngóng được những tin tức này, nhưng dù sao tôi vẫn thấy tâm
can thanh thản vì biết rằng đó không phải do mình. Chồng của bà Ferrars mới mất hơn một năm trước, và Caroline, chẳng cần chút cơ sở nào, luôn một mực cả quyết là do bà vợ đã đầu độc ông ta.
Chị ấy phớt lờ khi tôi một mực phản bác rằng ông Ferrars chết do bệnh viêm dạ dày cấp tính cộng thêm thói quen uống rượu quá đà. Đúng là triệu chứng của bệnh viêm dạ dày và trúng độc thạch tín không khác nhau là mấy, nhưng lời buộc tội của Caroline lại căn cứ vào những lý do khác.
“Cậu chỉ cần nhìn bà ấy là biết,” tôi nhớ có lần chị nói. Bà Ferrars, tuy không còn trẻ trung, nhưng vẫn là một phụ nữ vô cùng quyến rũ, và phục trang bà mặc dù giản dị, nhưng nhìn rất hợp với dáng vẻ của bà. Dẫu vậy thì vẫn có rất nhiều phụ nữ mua sắm quần áo ở Paris, và không nhất thiết phải vì thế mà đầu độc chồng mình.
Khi tôi còn đang đứng tần ngần ở hành lang, đầu óc vẫn miên man suy nghĩ về chuyện này, thì tiếng Caroline lại vọng ra một lần nữa, lần này nghe the thé hơn.
“Cậu đang làm cái quái gì ở ngoài đấy thế James? Sao còn không vào mà ăn sáng đi hả?”
“Em vào ngay đây, chị yêu quý,” tôi vội đáp. “Em đang treo áo.” “Từ nãy tới giờ cậu phải treo được cả chục cái áo rồi đó chứ.” Chị ấy nói phải. Tôi hẳn đã treo được ngần ấy.
Tôi bước vào phòng ăn, hôn phớt má Caroline như thường lệ, và ngồi xuống bên đĩa trứng và thịt xông khói. Thịt đã có vẻ hơi
nguội.
“Người ta gọi cậu sớm thật,” Caroline dò xét.
“Vâng,” tôi đáp. “Tới biệt thự King’s Paddock. Bà Ferrars.” “Tôi biết,” chị tôi nói.
“Làm sao mà chị biết?”
“Annie nói tôi hay.”
Annie là người giúp việc trong nhà, tốt tính, nhưng có tật nhiều chuyện.
Im lặng một lúc. Tôi tiếp tục ăn món trứng và thịt xông khói. Chiếc mũi thon dài của chị tôi bắt đầu phập phồng, dấu hiệu mỗi khi chị hứng thú hay phấn khích về chuyện gì đó. “Vậy là?” Chị hỏi gặng.
“Chuyện buồn. Chẳng làm được gì nữa. Hẳn bà ấy đã chết khi đang ngủ.”
“Tôi biết,” chị tôi lặp lại.
Lần này thì tôi bực.
“Làm sao chị biết được,” tôi gắt. “Em trước khi đến nơi còn không biết gì, và đến giờ vẫn chưa kể với ai chuyện này. Nếu con bé Annie đó mà cũng biết, thì nó hẳn có phép tiên.”
“Không phải là Annie kể cho tôi. Mà là ông giao sữa. Ông ấy nghe lại từ đầu bếp nhà Ferrars.”
Như tôi đã nói rồi đấy, Caroline không cần phải bước chân ra khỏi nhà để lấy tin. Chị ấy chỉ cần ngồi tại gia, và tin tức tự mò đến với chị.
Chị tôi tiếp tục, “Bà ấy chết vì lẽ gì thế? Trụy tim à?”
“Ông giao sữa nói với chị vậy sao?” Tôi châm chọc. Châm chọc vô hiệu với Caroline. Tưởng tôi hỏi thật, chị nghiêm túc đáp lại. “Ông ấy không biết chuyện này.”
Rốt cuộc thì đằng nào Caroline cũng sẽ biết, là sớm hay muộn thôi. Có lẽ chị ấy nghe từ tôi thì cũng vậy.
“Bà ấy chết do dùng thuốc an thần quá liều. Gần đây bà ấy phải uống thuốc vì mất ngủ. Tối qua hẳn đã uống nhiều quá.” “Vô lý,” Caroline bật lại. “Bà ấy cố tình đấy. Tôi chắc chắn thế!” Lạ lùng thay, đôi khi ta có những niềm tin thầm kín mà ta không muốn thừa nhận, nhưng khi nghe người khác thốt ra, ta lại sồn sồn chối bỏ. Tôi giận dữ tuôn một tràng: “Chị lại thế nữa. Chụp mũ vô duyên vô cớ. Việc quái gì mà bà Ferrars lại muốn tự vẫn? Bà ấy là quả phụ này, vẫn đang xuân này, giàu có sung túc này, sức khỏe tốt này, chỉ có mỗi việc tận hưởng cuộc đời. Thật ngớ ngẩn!”
“Không hề. Cậu phải thấy sắc mặt bà ấy dạo này lạ thế nào. Suốt sáu tháng qua rồi. Trông bà ấy cứ như bị ma ám. Mà cậu cũng mới thừa nhận là bà ấy bị mất ngủ đấy thôi. ”
“Vậy theo chị là vì lẽ gì?” Tôi lạnh nhạt hỏi. “Tình duyên trắc trở à?”
Chị tôi lắc đầu.
“Do dằn vặt,” chị nói giọng khoái chí.
“Dằn vặt í hả?”
“Đúng thế. Lúc trước chị nói với cậu là bà ấy đầu độc chồng mà cậu không tin. Giờ thì tôi có thể nói chắc luôn rồi.”
“Em thì thấy thế thật vô lý,” tôi phản bác. “Nếu một người phụ nữ dám phạm những tội tày đình như giết người thì chắc chắn phải là dạng máu lạnh, phải đang sung sướng tận hưởng thành quả, chứ không thể là kiểu người yếu đuối đi ăn năn hối lỗi như thế.”
Caroline lắc đầu.
“Có thể có những phụ nữ như vậy, nhưng bà Ferrars không phải là người trong số đó. Bà ấy tâm trí bất ổn, trong một phút bốc đồng đã xuống tay trừ khử ông chồng. Vì bà ta vốn không giỏi chịu đựng, mà ai lấy phải một người đàn ông như Ashley Ferrars thì chắc hẳn đau khổ nhiều lắm…”
Tôi gật đầu.
“Và từ đó bà ấy đã luôn bị ám ảnh về những gì mình đã làm. Chị thấy thật tội cho bà ấy.”
Tôi không tin là Caroline cảm thấy chút mảy may thương cảm nào cho bà Ferrars khi bà ấy còn sống. Giờ đây, khi bà ấy đã về nơi (có lẽ) không thể diện những bộ cánh Paris kia, Caroline mới có thể nhẹ nhõm mà rủ lòng xót thương.
Tôi khẳng định với chị là ý nghĩ ấy hoàn toàn vô lý. Dù có đôi chỗ tôi ngầm đồng tình, nhưng nếu tin Caroline có thể ăn ốc mà nói mò ra được sự thật như thế thì quả là sai lầm. Sẽ không có chuyện tôi khuyến khích kiểu suy diễn đó. Thể nào chị ấy cũng sẽ đi rêu rao khắp làng ý nghĩ của mình, và mọi người sẽ tin rằng đó là nhờ những thông tin pháp y do tôi cung cấp. Sự đời thật khốn.
“Vô lý”, Caroline đáp lại lời phản bác của tôi. “Rồi cậu xem. Cá
mười ăn một là bà ấy có để lại một bức thư thú nhận tất cả.” “Bà ấy chẳng để lại thư từ gì cả.” Tôi gắt lên, không kịp nhận ra hậu quả của câu nói.
“Ồ! Vậy là cậu cũng đã có tìm hiểu theo hướng này, phải không?” Caroline đắc ý. “James ạ, tôi tin chắc dù ngoài miệng có chối thì trong đầu cậu cũng nghĩ giống hệt tôi thôi. Cậu quả là tay lươn lẹo.”
“Khi điều tra thì phải luôn xem xét đến khả năng tự vẫn.” Tôi thừa nhận.
“Vậy sẽ phải giám định pháp y à?”
“Có thể có. Cái đó còn tùy. Nếu em có thể đứng ra khẳng định rằng hành động dùng thuốc quá liều đó hoàn toàn là do vô ý thì người ta có thể dựa vào đó mà miễn trừ điều tra.”
“Thế cậu có dám khẳng định chuyện đó không?” chị tôi hỏi sắc lẻm.
Tôi không đáp, đứng dậy bước ra khỏi bàn ăn.