Bạch Hổ Tinh Quân

Chương 1: Chương 1


trước sau

Đầu thu năm canh Tuất, võ lâm trung nguyên tổ chức đại hội để bầu Tân Minh chủ thay cho vị tiền nhiệm mới qua đời hồi xuân trước, đại hội kéo dài năm ngày và cuối cùng thì Lư Châu Đại Hiệp đã đoạt được ngôi vị cao quý nhất võ lâm Lư Châu Đại Hiệp Âu Dương Mẫn tuổi tròn thập tứ, đại phú hộ ở thành Hợp Phí.

Nổi tiếng là người trượng nghĩa, tốt bụng, dung mạo lại tuấn tú, đường chính. Cho nên việc ông ta trở thành Minh chủ đã khiến võ lâm, cùng hào kiệt Tam sơn Ngũ nhạc rất hài lòng và yên tâm.

Nhưng hỡi ơi. Hai năm sau thì cả võ lâm mới té ngửa ra rằng mình đã nhìn lầm người! Vị minh chủ đáng kính họ Âu Dương kia đã tận dụng đặc quyền can thiệp vào việc nội bộ của các môn phái mà khống chế cả giang hồ trừ sáu phái Bạch đạo trong Hội đồng Võ Lâm, mấy trăm bang hội lớn nhỏ từ bắc chí nam đều phải tuyệt đối phục tùng Minh chủ, đến mức chẳng còn chút tự do, độc lập nào hết.

Ngay cả việc lập người kế vị trong các bang phái cũng phải được sự đồng ý của Âu Dương Mẫn.

Đã có vài môn phái phản kháng sự độc đoán quá đáng của Lư Châu Đại Hiệp nhưng đều bị tàn sát. Âu Dương Mẫn xảo quyệt vô song, ngoài mặt giương cao ngọn cờ chính nghĩa, song bên trong thi hành những thủ đoạn mờ ám, lão thường dùng kế vu khống vu cáo, tạo lý do để tiêu diệt kẻ cứng đầu.

Tất nhiên là tài sản của nạn nhân đều lọt cả vào tay ngài Minh chủ. Lòng tham của Âu Dương Mẫn còn được biểu hiện trong cách quy định những khoản đóng góp hàng năm cho ngân sách tổng đàn Võ lâm. Trước nay việc này hoàn toàn tùy thuộc vào hảo ý của các phái trong thiên hạ nhưng giờ thì đã khác.

Âu Dương Minh chủ tuỳ theo thu nhập của từng bang hội mà đòi hỏi y như đóng thuế vậy. Có lúc, khoản thuế chết tiệt ấy lên đến một phần ba.

Đồng tiền liền khúc ruột nên tất nhiên có người không chịu nộp và chỉ một hai tháng sau thì hào kiệt ấy đã đột ngột qua đời, thân thể không thương tích và môi còn nở một nụ cười quái dị. Sau vài vụ như thế, không ai dám bủn xỉn trong đóng góp cho tổng đàn võ lâm nữa, nhưng đối với một vài bang phái có chỗ dựa vững chắc là quan lại hoặc cao thủ lão làng thì Âu Dương Mẫn lờ đi, sau này mới tính sổ, lão xảo quyệt chẳng thua gì Tào Tháo.

Không chỉ dừng lại ở đây, Âu Dương Mẫn còn tích cực chinh phạt giới Hắc đạo với chiêu bài "giáng ma vệ đạo", nhưng mục tiêu của lão thường là những kẻ đã hoàn lương nhiều năm không làm ác nữa. Lý do là vì bọn người ấy luôn có được một số tài sản kha khá.

Thế là lần đầu tiên trong lịch sử võ lâm Trung Nguyên có được một vị Minh chủ mà cả hai phe Hắc, Bạch đều chán ghét. Nhưng họ chỉ có thể nguyền rủa, trù ẻo cho Âu Dương Mẫn bị trời đánh chết chứ không thể nào hạ bệ được lão ta. Âu Dương Mẫn võ nghệ siêu quần bạt tụy, đáng xưng thiên hạ vô địch. Ngoài tài đánh kiếm thượng thừa, lão ta còn sở trường công phu "Thiết Sa chưởng" hai bàn tay rắn như thép nguội, không sợ gươm đao. Năm trăm thủ hạ dưới trướng Âu Dương Mẫn cũng là những cao thủ kiệt xuất và kiên dũng. Nổi bậc nhất trong đám ấy là mười gã đệ tử thân tín, võ công thuộc hàng nhất lưu lúc nào cũng cận kề để bảo vệ cho sư phụ. Do đó, việc ám sát Âu Dương Mẫn rất khó khăn.

Lão ta còn là chỗ quen biết với quan thái sư đương triều nên dẫu cho Hội đồng Võ lâm có gởi tấu chương về kinh sư tố cáo thì cũng vô ích. Tóm lại: Âu Dương Mẫn vững như bàn thạch, tha hồ tác oai ác quái. Oán khí ngút trời, người người nguyền rủa nên dường như Hoàng Thiên đã động lòng, sai Lôi Thần giáng búa vào nóc Tổng đàn Võ lâm, trên núi Quảng Sơn, phía Tây Nam Thành Trịnh Châu.

Tia sét kinh hồn ấy phá thủng mái ngói, đánh trúng phòng kế bên ngoạn thất của Minh chủ. Âu Dương Mẫn chỉ bị một phen bở vía chứ không hề hấn gì. Tuy nhiên, từ lúc đó, lòng lão nơm nớp lo sợ luật trời, mỗi lẩn có mưa là chột dạ.

Nhưng Âu Dương Mẫn ko vì thế mà phế bỏ tham vọng là nhân để tu nhân tích đức. Lão là người cương cường, cương ngạnh, chủ trương "nhân định thắng thiên", nên cố tìm cách đối phó với trời xanh. Và phương pháp duy nhất để chống lại sấm sét chính là viên "Tỵ Lôi thần châu".

Bảo vật này vốn là của Phục Lôi Thần Quân Thương Vô hoán đất Quỳnh Châu, tức đảo Hải Nam bây giờ. Hải Nam có một địa phương đặc biệt tên là Huyện Đam, là nơi mưa rào nhiều nhất Trung Hoa. Bình quân hàng năm Huyện Đam có một trăm ba mươi ngày sấm sét ầm ầm, ngay cả trong mùa đông, người ta vẫn nghe được những tiếng sấm kinh hồn.

Tất nhiên là ở Huyện Đam có khá nhiều người bị sét đánh trúng và đa số đều táng mạng. Nhưng tương truyền rằng Thương Vô Hoán đã từng lãnh những nhát búa của Thiên Lôi mà vẫn chẳng hề trầy vi tróc vẩy. Không những thế nội công của ông ta còn tăng tiến thêm, võ công siêu tuyệt được đời xưng tụng là Phục Lôi Thần Quân. Nghĩa là viên "Tỵ lôi thần châu" hoàn toàn có thực song tiếc rằng nó lưu lạc nơi nào thì chẳng rõ. Thương Vô Hoán từ trần đã sáu chục năm, lại không con cháu hay đệ tử để gìn giữ bảo vật. Do đó Âu Dương Mẫn chỉ còn cách nhờ Cái Bang điều tra hạ lạc của Tỵ Lôi thần châu và loan tin khắp thiên hạ rằng lão ta sẵn sàng mua bảo vật ấy với giá năm ngàn lượng vàng.

Cả võ lâm biết tin này liền vô cùng cao hứng, hết lời chế giễu vị Mimh chủ bị trời đánh hụt kia. Song mặt khác, họ lại ao ước rằng mình có được viên \Tỵ Lôi thần châu" để bán cho lão chết toi Âu Dương Mẫn. Năm ngàn lượng vàng là một vài sản khổng lồ, thừa sức khuấy động lòng tham của con người.

Những kẻ thiếu lương tâm trên giang hồ đã ra sức truy tìm "Tỵ Lôi thần châu". Nếu cướp được thì tốt, bằng như không đủ sức thì đem tin tức ấy bán cho Âu Dương Minh chủ, chắc cũng được sáu bảy trăm lượng.

Vô hình trung, tai họa chết người đang đe dọa kẻ nào giữ bảo vật. Cố nhân có câu: "Kẻ mang ngọc có tội" quả là chí lý.

Giờ chúng ta sẽ đến cái nơi mà viên "Tỵ Lôi thần châu" có liên quan. Nơi ấy tên gọi là Quách gia trang, một cơ ngơi thanh nhã ở phía Tây thành Hứa Xương, cạnh bờ Tây sông Thạch Lương và cách cầu Bá Lăng nửa dặm.

Cầu Bá Lăng là đi tích nổi tiếng đất Hứa Xương, bắc ngang sông Thạch Lương. Nó lừng danh không chỉ vì có lan can cầu bằng đá xanh chạm trổ tinh xảo. Mà còn bởi là nơi Quan Vân Trường thời Tam quốc đã cởi quan phục trả lại Tào Tháo khi hộ tống hai chị dâu tìm về với Lưu Bị. Đầu cầu có tấm bia đá ghi rằng : "Nơi Hán Thọ Đình Hầu cởi áo bào". Chẳng những thế, bách tính Hứa Xương còn lấy một miếu thờ Quan Công ở phía Tây cầu, cạnh miếu có cây bách cao lớn, già nua, chẳng rõ đã bao năm tuổi.

Trong Quách gia trang cũng trồng bách đã mấy đời nên cảnh vật luôn xanh tươi, râm mát. Chủ nhân đương đại của tòa trang viện này là Quách Thiên Tường. Ông sở hữu bảy, tám đại tửu lâu và đại khách điếm trong thành Hứa Xương. Nhưng Thiên Tường đã sớm giao lại việc kinh doanh cho con gái, con rể, hưởng nhàn bên người vợ kế.

Quách trang chủ goá vợ hồi bốn mươi lăm tuổi, ba năm sau một tục huyền với một nữ nhân tuổi tam thập, tên gọi Kỹ Thanh.

Kỹ nương không phải người Hứa Xương vì gốc gác ra sao thì ít ai được rõ. Và làm thế nào mà bà trở thành vợ kế của Quách trang chủ cũng chỉ có trời mới biết được.

Tuy nhiên, Kỹ nương xinh đẹp phi thường, đức hạnh tuyệt luân, một lòng một dạ yêu thương tôn kính ông chồng già. Và tuyệt diệu nhất là việc bà đã sinh hạ cho Quách Thiên Tường một nam tử để nối dõi tông đường.

Đứa bé ấy được đất tên là Quách Tử Khuê, cái tên này được xuất phát từ mặt cố sự ngộ nghĩnh và có phần huyền hoặc. Số là một đêm nọ, Kỹ nương nằm mộng thấy mình lạc đến Thiên cung, đang ngơ ngác giữa những đám mây la đà, thì chứng kiến cảnh một chàng trai áo tía xinh đẹp chọc ghẹo lão Thiên Lôi mỏ nhọn. Lôi Thần nổi giận rượt đuổi và liên tiếp tung búa giáng sấm sét để giết chàng áo tía. Chàng ta sợ hải chạy dài nhưng xem ra khó thoát.

Cuối cùng rồi y cũng chạm mặt Kỹ nương và cười:

- Ta là Khuê tinh trong dãy chòm sao Bạch Hổ. Nay ta lỡ đắc tội với Lôi công, chẳng còn dám lưu lại Thiên đình, đành xuống trần gian làm con của phu nhân vậy.

Dứt lời, Khuê Tinh nhảy đến ôm chặt Kỹ nương. Bà sợ quá thét lên, giật mình tỉnh giấc và kề cho Thiên Tường nghe. Quả nhiên, tháng sau bà phát hiện mình thụ thai.

Tử Khuê được xem là có gốc gác thần tiên nên song thân rất mực cưng chiều, chẳng bao giờ đánh đòn cả. Thực ra thì giấc mơ kia rất đáng tin cậy vì Khuê nhi thông minh xuất chúng học một biết mười, nhưng cậu ta cực kỳ hiếu động, suốt ngày chạy nhảy, miệng cười toe toét, nghịch ngợm, táy máy.

Khổ nỗi vì Khuê nhi lại rất vụng về lơ đễnh, đụng đâu bể đó, hủy hoại hàng trăm món đồ cổ đắt giá. Sau mỗi lần như thế Khuê nhi đều tỏ ra áy náy, hối lỗi, tự hứa sẽ thận trọng hơn, nhưng rồi cũng vậy.

Đối với nhà đại phú thì những tổn thất vật chất ấy không đáng kể, có điều là Khuê nhi còn cực kỳ xui xẻo, thường xuyên gặp tai họa, bươu đầu sứt trán vì té ngã hoặc va phải vật cứng.

Giả như có ai đánh rơi mảnh vỏ chuối hay mảnh sành trong gia trang thì kẻ đạp trúng nhất định phải là Tử Khuê.

Hoặc là nếu trong tám cái ghế trống quanh bàn bát tiên mà có một cái sắp gãy thì cũng chính Tử Khuê đã chọn đúng vi trí ấy.

Vợ chồng Quách Thiên Tường vô cùng rầu rĩ, cho rằng đấy là sự báo thù của Thiên Lôi chứ làm gì có ai xui xẻo đến thế.

Kỹ nương là mẹ nên đứt từng khúc ruột mỗi lần thấy con bị đau đớn. Bà liền thóa mạ tổ tông mười tám đời của Lôi Thần và tìm cách bảo vệ đứa con bảo bối.

Kỹ Thanh Lam vốn là một cao thủ Hắc đạo, lừng lẫy đất Thục với nữ danh Bảo Tâm Ma Nữ. Bà xuất thủ cực kỳ tàn nhẫn, chẳng hề biết xót thương kẻ địch, tựa như có trái tim bằng băng tuyết vậy. Trong vòng mười năm, Kỹ nương đã giết khá nhiều người khiến giới võ lâm Tứ Xuyên phải hãi hùng.

Tuy nạn nhân của bà đều là bọn trời đánh thánh vật nhưng Kỹ nương vẫn mang tiếng là ác nhân. Năm ba mươi tuổi, bà vẫn phòng không chiếc bóng vì chẳng có ma nào dám tán tỉnh, cầu hôn. Ngày nọ, Kỹ Thanh Lam chạm trán một vi thiền sư, nghe được lời giáo hóa mà tỉnh ngộ, phong kiếm quy ẩn, thôi không gây thêm sát nghiệp nữa.

Kỹ nương rời Tứ Xuyên để chôn vùi một quá khứ tanh máu. Khi đến Hứa Xương, bà tình cờ gặp lại Quách Thiên Tường, người đã từng được bà cứu mạng ở cạnh bờ sông Gia Lăng.

Nghe tâm sự của Thanh Lam, Quách trang chủ liền mời bà về làm khách để đền ơn và cuối cùng đã ngỏ lời cầu hôn.

Giờ đây, vì đứa con bé bỏng, Kỹ nương đã phá bỏ lời thề đem thuật học năm xưa ra sử dụng.

Trước tiên, bà không tiếc bạc vàng mua toàn những loại dược thảo quí hiếm, theo bí phương mà bào chế thành linh đan và linh thủy trong uống ngoài thoa, bồi bổ gân cốt và da thịt Tử Khuê.

Sau năm năm được mẫu thân tài bồi, Khuê nhi đã có một cơ thể rắn chắc, chẳng hể bị tổn thương bởi những cú ngã bất ngờ hay những va chạm ngớ ngẩn cứ xảy ra liên tục. Đồng thời, cậu bé cũng làu thông pho "Nga Mi đạo quyền" một tuyệt học sắp thất truyền.

Tại sao có thể thất truyền khi phái Nga Mi vẫn tồn tại và hùng mạnh nhất vùng Tây Thục. Xin thưa rằng phái Nga Mi hiện nay thuộc Phật chứ không phải Nga Mi đạo giáo thuở xa xưa.

Số là trước đây núi Nga Mi là thánh địa của đạo Lão Trang và các đạo sĩ Nga Mi đã sáng tạo ra một loại võ công rất tuyệt điệu. Khi Phật giáo từ Thiên Trúc truyền vào Trung Hoa thì cả hai tôn giáo ấy cùng tồn tại trên núi Nga Mi. Nhưng đến thời Tống thì Phật giáo hưng thịnh rực rỡ, còn đạo giáo lại suy tàn đi, chùa chiền tấp nập tín đồ, và đạo quán thì vắng tanh không kẻ cúng dường. Các đạo sĩ Nga Mi biết ở lại sẻ chết đói nên đã bỏ đi nơi khác và núi này là thành thánh địa Phật giáo, một trong Tứ đại Phật sơn của Trung Hoa.

Tăng lữ Vạn Niên Tự đã kết hợp tinh thần của hai tôn giáo lại nên võ thuật Nga Mi hiện tại khác với bản gốc ngày xưa. Bằng chứng cho việc này là một tác phẩm của Đường Thuận Chi thời nhà Minh, tên gọi Nga Mi Đạo Nhân Quyền Ca. Trong quyển võ luận này, họ Đường đã miêu tả cụ thể võ học thượng thừa của đạo giáo núi Nga Mi với nhiều tranh minh họa rất sống động.

Tóm lại, Kỹ nương may mắn được thụ giáo một đạo nhân thuộc hệ phái đạo giáo Nga Mi ngày trước nên mới biết pho "Nga Mi đạo quyền". Không những thế, bà còn sở đắc cả pho "Thanh Long kiếm pháp", một tuyệt học khác của Nga Mi cổ xưa. Đạo giáo Trung Hoa xem Thanh Long là vị thần hộ vệ ở phương Đông, tức là bảy chòm sao Giác, Cang, Đê, Phòng, Tân, Vĩ, Cơ.

Năm năm là một khoảng thời gian khá dài, đủ để Khuê nhi học xong cả hai pho quyền kiếm của mẫu thân. Mỗi đường quyền cước, mỗi chiêu kiếm đều đòi hỏi sự chính xác cao. Do vậy, võ nghệ đã giúp cho tay chân Khuê nhi không còn vụng về. Cậu bé đã thôi làm vỡ đồ vật, thôi vấp ngã, nhưng vận đen vẫn chẳng chịu buông tha. Cành khô, cứt chim, ngói vỡ vẩn cứ rơi vào cái đầu xui xẻo của Khuê nhi. Còn khi cậu ta gieo xúc xắc thì luôn luôn thua, dầu giao ước lớn ăn hay nhỏ ăn thì cũng thế. Tuy nhiên, nhờ giỏi võ nên Tử Khuê phản ứng nhanh nhạy thoát khỏi những tai ương quái dị ấy.

Song khủng khiếp thay, đến năm mười ba tuổi thì Khuê nhi bị sét đánh không chỉ một mà là những bốn lần, lần nào nhát búa của lôi thần cũng cách xa Khuê nhi vài trượng song cũng đủ để đứa bé ngã lăn, lông tóc dựng ngược, nằm liệt mấy ngày mới dậy nổi đương nhiên nhà cửa cũng bốc cháy

và hư hại nặng nề.

Vợ chồng Quách Thiên Tường lo lắng đến phát sốt, nhờ đạo quán Thiên Sư trong thành Hứa Xương lập đàn cầu an, van xin Lôi Thần bỏ qua thù oán với Khuê Tinh, Nhưng lão mỏ nhọn chết toi ra vẫn không rộng lượng, cuối mùa thu giáng thêm búa nữa, lần này Khuê nhi vô sự vì đã chui xuống gầm bệ thờ Phật tổ Như lai mà ẩn nấp ngay khi trời đổ mưa.

Song chẳng lẽ Tử Khuê phải suốt đời ru rú trong nhà, quanh quẩn bên tượng Phật, cho nên cho nên Kỹ nương đã nhớ đến viên "Tỵ Lôi thần châu". Trời vừa chớm Đông là bà cấp tốc đưa chồng con lên đường đi đến núi Vũ Lương sơn ở vùng Đông Nam Tứ Xuyên. Khác với Âu Dương Mẫn sau này, Kỹ nương biết chính xác ai là người đang giữ bảo vật.

Vũ Lương sơn là một rặng núi thấp. chỉ cao độ gần năm trăm trượng và ở đấy có một vị đạo sĩ già mang đạo danh Vu Mộc Chân Nhân, sở hữu "Tỵ Lôi thần châu".

Sau hơn một tháng bôn hành vất vả cỗ xe song mã của nhà họ Quách đã đến Vũ Lương sơn. Để ả tỳ nữ đóng xe ở lại chân núi, ba người dắt díu nhau thượng sơn.

Đạo Am của Vu Mộc Chân Nhân nằm trên một bình đài, cao cách mặt đất độ vài chục trượng. Quanh chiếc am gỗ mái lá đơn sơ là hàng chục cây cổ thụ thân to cỡ hai ba người ôm, tàn lá sum suê. Vu mộc là loài cây vô dụng nhất thế gian, gỗ xấu đến mức chẳng làm được bất cứ vật dụng gì. Song chính vì thế mà cây vu sống rất dai, chẳng ai thèm đốn.

May thay, Vu Mộc Chân Nhân có ở nhà, đang nhâm nhi chén rượu cay với lạc rang. Ông ta chẳng có vẻ gì là một kẻ tu hành đạo hạnh uyên thâm hoặc võ nghệ phi phàm.

Người ông gầy như que củi và cao lênh khênh mặt mũi tầm thường da nhăn, tóc bạc, tai vểnh như tai voi, mắt thì sâu hoắm.

Kỹ nương vội chắp tay nghiêng mình thi lễ:

- Đệ tử rất mừng khi thấy sư bá pháp thể an khang.

Vu Mộc Chân Nhân chắc cũng vui khi gặp lại đệ tử của người sư đệ quá cố nên nở nụ cười tươi rói. Lạ thay, lúc này dung mạo ông hoà ái, rạng rỡ và chẳng còn xấu xí chút nào cả.

Kỹ Thanh Lam ngượng ngùng giới thiệu chồng và con. Quách Thiên Tường vòng tay thi đại lễ, còn Tử Khuê quỳ xuống ấp úng :

- Tiểu tôn là Tử Khuê xin hái kiến sư bá tổ.

Chân Nhân vui vẻ xua tay, mời khách ngồi xuống mấy chiếc đôn gỗ thô kệch. Khuê nhi thủ lễ nên đứng cạnh mẫu thân chứ không dám ngồi. Vả lại, cậu chẳng chắc rằng cái ghế mà mình chọn có an toàn hay không.

Vu Mục Chân Nhân ngắm nghía gương mặt thanh tú trắng hồng của Tử Khuê mà khen thầm. Sau vài câu xã giao, Kỹ nương liền kể rõ ngọn ngành việc của con mình.

Chân Nhân kinh ngạc cau mày nói :

- Này tiểu hài tử! Ngươi bước sang đây, cho bầu đạo xem thử!

Tử Khuê ngoan ngoãn vâng lời. Vu Mộc Chân Nhân cởi cả áo lông lẫn áo trong của cậu bé rồi sờ nắn xương cốt, đầu gật gù lộ vẻ hài lòng. Cuối cùng, ông nắm cổ tay Tử Khuê dùng pháp "Thái tố" mà chuẩn đoán hậu vận, bỗng ánh mắt Chân Nhân lộ vẻ lo sợ khiến vợ chồng Quách Thiên Tường chột dạ.

Chân Nhân bảo Khuê nhi mặc y phục lại rồi hỏi bát tự niên canh của Thiên Tường và Kỹ nương. Ông bấm tay tính toán một lúc và thở dài:

- Thằng bé này cốt cách thanh kỳ, căn cơ thượng phẩm, song vận số lại hắc ám, dẫu có đeo "Tỵ lôi thần châu" thì cũng khó thọ đến quá tuổi mười tám.

Nghe như sét đánh ngang tai, vợ chồng Thiên Tường tái mặt, rời ghế quỳ ngay xuống mặt nền đất nện, vừa lạy lục, Kỹ nương khóc nói:

- Sư bá là bậc thần tiên pháp lực thông thần, xin hãy nghĩ cách cứu Khuê nhi. Nếu nó vắn số thì điệt nữ cũng chằng còn muốn sống nữa.

Dứt lời, bà phục xuống dát khóc nức nở. Thiên Tường cũng đau lòng đến mức nói chẳng nên lời cứ đập đầu lạy mãi. Khuê nhi thâý vậy cũng ôm lấy mẫu thân mà khóc ròng.

Vu Mộc Chân Nhân nhăn mặt cằn nhằn:

- Thôi được rồi! Đừng khóc nữa, bần đạo đã có cách rồi.

Vợ chồng họ Quách mừng như sống lại, lòm còm đứng lên và Kỹ nương sụt sùi hỏi:

- Dám hỏi sư bá phương cách ấy thế nào ?

Vu Mộc Chân Nhân cười cười đáp:

- Do mạng của Tử Khuê tương khắc với vợ chồng ngươi nên ở chung thì càng mau chết. Vì vậy, thằng bé sẽ ở lại đây làm đệ tử bần đạo, pháp lực của ta sẽ che chở cho Khuê nhi mọi tai kiếp. Song phải qua tuổi mười tám. Lúc đó về thì sẽ hết đen đủi và rất thọ.

Nghe nói phải xa con vợ chồng họ Quách rầu thúi ruột, Thiên Tường liếc quanh cảnh nghèo nàn thiếu thốn trong đạo am mà ngao ngán. Lẽ nào ái tử của lão lại ở chốn khốn khó, hoang vu này.

Lòng mẹ thương con như trời biển nên Kỹ nương quyết định rất nhanh:

- Bẩm sư bá. Nếu thế thì diệt nữ cũng ở lại đây dựng nhà nơi chân núi, ngày hai lần mang cơm nước lên để sư bá và Khuê khi dùng bữa, có như thế thì thằng bé mới không quá buồn rầu vì phải đột ngột xa từ mẫu.

Dường như Vu Mộc Chân Nhân cũng biết tài bếp núc thượng thừa của Kỹ nương nên tưởng tượng ngay đến những món ăn thơm ngon, liền nuốt nước miếng, gật đầu chấp nhận :

- Thế cũng được. Quý hồ mẹ con ngươi không ở chung nhà là tốt rồi. Lam nhi cứ đựng quách một mái lá trên bình dài này, chẳng cần phải đi đâu cho bất tiện.

Khuê nhi thở phào mừng rỡ, nhưng Quách trang chủ thì vô cùng ngao ngán. Lão tuyệt đối chẳng muốn xa người vợ trẻ mỹ miều tất phải ở lại Vũ Lương sơn khỉ ho cò gáy, thiếu mọi tiện nghi này

Thiên Tường ngập ngừng bảo:

- Tiểu tế cũng chẳng thể rời xa thê tử, nên xin sư bá cho phép ở lại đây. Và tiểu tế xin tỏ chút lòng tri ân bằng cách cho xây dựng lại đạo am này. Mong sư bá rộng lòng chấp nhận.

Vu Mộc Chân Nhân phì cười:

- Bần đạo đã ở ngoài tục luỵ, sướng khổ cũng như nhau. Vậy thí chủ muốn làm sao thì tùy.

Vàng bạc có mãnh lực vô song nên bọn thợ thổ mộc trong trấn Vũ Lương gần chân núi, đã làm việc cật lực ngày đêm bất chấp cả mưa tuyết lạnh lùng. Chỉ gần một tháng sau, trên bình đài đã chễm chệ đạo am khang trang và một am trống trải xinh xắn.

Nhưng chỉ đến tháng tư năm mới thì Quách Thiên Tường lâm bệnh vì thủy thổ bất phục. Kỹ nương đành rứt ruột xa con, đưa lão chồng già về Hứa Xương tĩnh dưỡng. Bà ôm Tử Khuê an ủi rằng sẽ trở lại ngay khi Thiên Tường khỏe hơn.


trước sau
Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!