Bạch Hổ Tinh Quân

Chương 2: Chương 2


trước sau

Sau mấy tháng thụ giáo, Khuê nhi biết sư phụ rất nghiêm khắc nên không dám khóc, chỉ ứa lệ gật đầu. Ả nữ tỳ Tiểu Loan vẫn ở lại hầu hạ thiếu chủ và Vu Mộc Chân Nhân.

Nhưng Kỹ nương không thực hiện được lời hứa vì bà đã cấn thai khi về đến Hứa Xương. Vì khi Quách trang chủ bình phục thì bụng bà đã to. Nhớ thương con, vợ chồng họ Quách chi còn cách viết thư liên tục mỗi tháng, nhờ dịch trạm chuyển giùm. Thỉnh thoảng Quách Thiên Tường cùng con gái đi núi Vũ Lương thăm em. Tuy là chị em cùng cha khác mẹ nhưng Đại tiểu thư Quách Thu Dung và Nhị tiểu thư Quách Xuân Hương rất yêu thương Tử Khuê. Tuổi tác hai người đều quá ba mươi lại không có con trai nên đặt cả tình thương vào đứa em kháu khỉnh mà số phận bạc bẽo.

Bảy năm sau, Quách Tử Khuê đã bước sang tuổi hai mươi mà vẫn còn học nghệ ở Vũ Lương sơn, chàng phải hoàn thành lớp thứ năm của "Thần công Thao Quang tâm pháp" thì mới được phép hạ sơn. Nhờ căn cơ tuyệt đỉnh và sự rèn luyện của mẫu thân từ lúc chàng còn nhỏ, nên Tử Khuê mới tiến bộ vượt bậc như vậy, chứ theo lệ thường thì bảy năm chỉ đủ cho lớp thứ ba.

Cậu bé xinh xắn ngày nào giờ đã trở thành một thanh niên cường tráng, khôi ngô. Tử Khuê dong dỏng cao, thân thể không vạm vỡ nhưng đầy những cơ bắp rắn như thép. Cùng với tác dụng của linh đan, linh thủy mà mẹ chàng đã bồi bổ suốt năm năm, nội công "Thao Quang" cũng tạo nên màn cương khí bảo vệ da thịt Tử Khuê - Tuy không thể gọi là mình đồng da sắt song việc đả thương chàng chẳng dễ. Và việc giết chàng lại bội phần khó khăn hơn, khả năng chịu đòn của chàng gấp bội người thường.

Vu Mộc Chân Nhân tuy mang tên của một loài cấy vô dụng nhưng lại là kẻ tài hoa xuất chúng, văn võ song toàn. ông tinh thông nhiều tuyệt học nhờ bốn mươi mấy năm phêu bạt, vân du. Chân Nhân chắt lọc những cái hay của trăm nhà bổ xuyết cho hoàn mỹ hơn và giờ đây truyền thụ lại cho đồ đệ.

Vu Mộc Chân Nhân xuất gia tu đạo từ nhỏ, phát thệ trường trai và giới sát nên không sử dụng vũ khí. Sở trường của ông chính là khinh công và quyền chưởng. Nhưng pho "Thao Quang tâm pháp" lại vô cùng bác tạp, uyên thâm, bao hàm cả phép "Phất huyệt" lẫn "Phách không chưởng" chứ không chỉ có quyền cước.

Khi Tử Khuê đã đạt được bảy thành hóa hầu "Thao Quang tâm pháp" thì từ hai huyệt Thương Dương, Tung Xung, trên đầu các ngón trỏ và giữa của cả hai bàn tay sẽ phát ra tia chân khi mảnh như tơ dài độ hai gang. Tia chỉ kình này không thể xuyên thủng thịt da đối phương Song vẫn đủ sức phong tỏa huyệt đạo. Nghĩa là chàng chẳng cần phải chạm vào người kẻ địch mà vẫn đắc thủ một cách khó ngờ.

"Phách không chưởng" thì càng thập phần lợi hại, đả thương người từ khoảng cách ba bốn xích, dài hơn đao kiếm một chút. Song công phu này đòi hỏi đến chín thành hỏa hầu và nó chẳng thể thi triển thường xuyên vì rất hao tổn chân nguyên. Dĩ nhiên là còn lâu Tử Khuê mới đạt đến trình độ ấy.

Tuy không sở trường trong việc sử dụng vũ khí nhưng Vu Mộc Chân Nhân vẫn tinh thông kiếm thuật, đao thuật, thương thuật, côn thuật... ông nghiên cứu các môn ấy để tìm ra cách đối phó bằng "Thao Quang thần thức" Vì thế, Chân Nhân hoàn toàn có thể hướng dẫn đệ tử rèn luyện và đạt đến mức tinh túy của pho "Thanh long kiếm pháp".

Ngoài ra, ông còn dạy thêm cho Tử Khuê những chiêu kiếm ảo diệu, cái mà ông đã thu hoạch được của thiên hạ. Do vậy, bản lĩnh kiếm thuật của Tử Khuê rất cao siêu và phức tạp.

Về phần pho "Nga Mi đạo quyền" thì chính là căn bản của "Thao Quang thần thức".

Tóm lại, sau bảy năm miệt mài khổ luyện, học tập, Quách Tử Khuê đã trở thành một cao thủ hàng đầu trong giới thanh niên. Lúc ấy là mùa thu năm Quý Sửu, năm thứ tư trong sự trị vì của Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn. Là ngày vừa tròn năm từ lúc lão bị lôi thần thăm viếng lần đầu, lần thứ hai vừa mới xảy ra vào cuối hạ năm nay. Thế cho nên Âu Dương Mẫn càng nóng ruột, muốn có ngay viên "Tỵ lôi thần châu".

Giờ đây, lão đang ở trên đỉnh cao của quyền lực và giầu sang, tài sản hàng trăm vạn lượng nên lại càng sợ chết. Lão ta liền tăng gấp đôi giá mua "Tỵ Lôi thần châu", nghĩa là tròn vạn lượng hoàng kim.

Hơn thế nữa, lão còn thẳng thắn loan báo rằng dù ai đó chỉ cung cấp manh mối về hạ lạc của thần châu thì cũng được thưởng ngàn vàng. Người võ lâm thầm hiểu rằng Âu Dương Mẫn sẵn sàng giết người đoạt của nếu chủ của thần châu không chịu bán.

Cuối cùng thì cũng có người đem tin tức đến bán cho Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn để lãnh món tiền cò ngàn lượng.

Gã này tên gọi Nhâm Đức Tín, bốn mươi ba tuổi, quê quán Hứa Xương. Và gã chính là rể lớn nhà họ Quách, trượng phu của Đại tiểu thư Quách Thu Dung.

Theo tục lệ xưa của Trung hoa, con trai mới có quyền thừa kế, còn con gái thì không. Bởi vậy mới có câu "Nữ sanh ngoại tộc". Khi xuất giá nữ nhân chỉ được một khoản tài sản không lớn là của hồi môn. Khoản này nhiều hay ít là tùy theo gia thế và hảo tâm của cha mẹ.

Nhưng hoàn cảnh của Quách gia trang có hơi khác. Hai chị của Tử Khuê đều có nhà riêng song lại trực tiếp quản lý cơ nghiệp họ Quách, chờ chàng trưởng thành thì giao lại. Đương nhiên, hàng tháng họ được hưởng một phần lợi tức trong việc kinh doanh, thù lao công điều hành quản lý.

Xuân Hương và Thu Dung yêu thương Tử Khuê còn vì một lý do khác, đó là tấm lòng rộng rãi của Nhị nương Kỹ Thanh Lam. Sau khi sanh hạ Tử Khuê, bà đã bàn với Quách trang chủ rồi cho gọi hai vị tiểu thư đến. Kỹ nương đã hứa với họ rằng tài sản sẽ chia làm bốn và Tử Khuê chỉ nhận hai phần.

Sau này, khi Kỹ nương sinh thêm bé trai là Tử Chiêm thì di chúc của Quách trang chủ được sửa lại đôi chút, di sản chia năm, Từ Khuê hưởng hai phần, ba là của hai nữ nhân và Chiêm nhi.

Dù như thế thì cũng là phúc phần của Thu Dung và Xuân Hương, dẫu họ có nằm mơ cũng không tưởng đến. Do vậy, hai người con vợ trước của Quách lão một lòng một dạ vì việc nhà và xem hai đứa em khác mẹ như

ruột thịt.

Nhưng khổ thay, Nhâm Đức Tín lòng lang dạ sói, không cảm kích trước sự rộng lượng của Kỹ nương, lại cho rằng chia ba tốt hơn chia năm. Gã lại đang mê tít một ả kỹ nữ nên rất cần tiền, mà Thu Dung thì chẳng bao giờ chịu để chồng mang của cải đi bao gái lầu xanh. Thế là Đức Tín nghĩ đến chuyện bán đứng Quách Tử Khuê. Trước tiên, gã có ngàn vàng và nhân tiện là tăng phần thừa kế.

Sau khi tiếp nhận tin tức, Âu Dương Mẫn liền thống lĩnh hộ vệ cùng năm mươi thủ hạ trực chỉ Tứ Xuyên. Lần này lão không giương cờ gióng trống mà lặng lẽ trảy quân, chẳng hề quấy nhiễu các bang hội trên đường đi.

Chiều hai mươi chín tháng chín, đoàn người chỉ còn cách Vũ Lương sơn độ một ngày đường. Âu Dương Mẫn ra lệnh ghé vào trấn Thanh Giang nghỉ trọ.

Đúng lúc ấy, thầy trò Quách Tử Khuê cùng nhau dùng bữa chiều. Tỳ nữ Tiểu Loan đã về Hứa Xương để lấy chồng từ hai năm trước, nhân dịp phu thê Quách Thiên Tường đến thăm con. Do vậy, những món cơm chay của Tử Khuê nên không được ngon lắm. Bảy năm nay, chàng thiếu gia nhà họ Quách ăn chay. May mà rặng Vũ Lương sơn mọc đầy nấm dại rất bổ dưỡng nên Tử Khuê đủ năng lượng mà luyện võ. Dĩ nhiên chàng ăn rất nhiều, mỗi bữa hơn thăng gạo.

Thu về, trời se lạnh và trên núi càng lạnh hơn. "Minh sư tất hữu cao đồ". Thầy là ma men thì trò bợm nhậu. Nói cho vui thế thôi chứ bậc chân tu chẳng bao giờ sa đà trong lạc thú trần gian. Vu Mộc Chân Nhân và Tử Khuê dù tửu lượng rất cao nhưng chỉ uống vài chung để tìm thi hứng, làm thơ, ngâm thơ hoặc nghe thơ thì phải có chút hơi men mới khoái.

Thu phong bổng đưng ào ạt thổi qua bình đài làm cho hàng dậu phù dung trước cữa đạo am phải tơi bời, hoa lá rụng rơi. Vu Mộc Chân Nhân tức cảnh sinh tình, sáng tác ngay một bài thơ. Ông cất giọng rè rè, khàn đục mà ngâm nga:

Phù Dung hoa lạc diệp phân phân

Môn yếm tà phi nhất viện bần

Trú cửu đốn vong thân thị khách

Niên thâm cảnh giác lão tuỳ thân

Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục

Loạn thế toàn sinh cửu uý nhân

Lưu lạc bạch đầu thành để sự

Tây phong xuy đảo tiểu ô cân.

(Tạm dịch)

Phù Dung tơi tả lá cùng hoa

Một gian lầu nét khép lơ là

Trọ lâu quên bẵng thân là khách

Năm lụn thêm đau nỗi tuổi già

Đất lạ giả ngây phòng thói tục

Yên thân đời loạn nể người ta

Nổi trôi bạc tóc chưa nên việc

Thổi bật khăn đầu trận gió qua...

Tứ thơ bàng bạc tư tưởng Lão Trang và hàm ẩn ý ngậm ngùi cho kiếp nhân sinh đầy khổ ải. Từ Khuê nghe xong khoan khoái vỗ bàn khen hay.Vu Mộc Chân Nhân tươi rói nét mặt, đắcý như trẻ con được trưởng bối tán dương ông vừa định nói vài câu khiêm tốn gì đó thì ngoài cửa am có con chim lạ lông màu đỏ sa xuống và kêu lên chín tiếng bi thương. Sau đó vỗ cánh bay đi mất Vu Mộc Chân Nhân lẩm bẩm:

- Dương Cửu! Dương Cửu! Thì ra đã đến lúc rồi

Tử Khuê ngơ ngác hỏi:

- Bẩm ân sư! Điềm lạ này có ý nghĩa hung các như thế nào?

Vu Mộc Chân Nhân không đáp, bấm tay tính toán, suy nghĩ rất lâu mới lên tiếng:

- Khuê nhi! Khí số bần đạo đã tận chỉ còn sống được ít tháng nữa thôi. Vì thế, bần đạo sẽ đưa ngươi lên thạch động trên đỉnh cao nhất Vũ Lương sơn. Trong động có bí kíp của bẩy chiêu "Oán Thiên kiếm pháp". Tuyệt học này lợi hại vô song và cực kỳ độc ác, tàn nhẫn. Nhưng ngươi là kẻ có lòng nhân tất sẽ biết cách sử dụng đúng vào việc trừ gian diệt bạo.

Tử Khuê chẳng hề chú ý đến bảy chiêu tuyệt kiếm, chỉ mếu máo đau xót khi nghe nói sư phụ sắp từ trần, thường xuyên được nghe Vu Mộc Chân Nhân lải nhải câu \sinh ký tử quy \, chết là về với tự nhiên, chàng cũng không thể nào bình tâm khi sắp phải mất đi người mình yêu thương tôn kính. Bảy năm sớm tối cận kề, ngày ngày nghe lời giáo huấn, Tử Khuê thân thiết với Chân Nhân còn hơn cha ruột.

Chàng ứa lệ nhìn ân sư trân trối, nghẹn ngào nói:

- Sao sư phụ không nán lại hồng trần ít năm để đồ nhi phụng dưỡng hầu hạ. Ân sư pháp 1ực vô biên muốn sống lâu trăm tuổi nào có khó gì.

Vu Mộc Chân Nhân ôn tồn hoà ái đáp:

- Trương Tam Phong đang nặng nghiệp quả là phái Võ Đang nên phái sống đến trăm tư mới được về với đạo lớn. Nay bần đạo chẳng sở đắc một điều gì, lại có ngươi là kẻ kế thừa xứng đáng thì còn vương vấn cõi đời ô trọc này làm chi nữa? Khuê nhi bất tất phải thương tâm mà hãy mừng cho bần đạo sớm được thăng thiên.

Mờ sáng hôm sau, tức đầu tháng mười, hai thầy trò rời bình đài trên núi Vọng Vân, đi sang ngọn Oán Thiên ở gần đấy rồi trèo lên đỉnh. Oán Thiên là ngọn núi cao nhất dãy Vũ Lương sơn.

Đường lên núi cực kì cheo leo, hiểm trở, nhưng do thông thạo địa hình và có tài nghệ khinh công thượng thừa nên hai người đến nơi lúc giữa trưa.

Oán Thiên động ở độ cao gần trăm trượng, thường xuyên bị mây mù che phủ, phong cảnh huyền hoặc tựa cõi tiên. Nhưng vào giờ Ngọ hôm nay, nắng thu rực rỡ khiến bên trong thạch động không đến nỗi tối tăm.

Chờ Tử Khuê bẻ cành cây quét dọn xong, Vu Mọc Chân Nhân thọc tay vào một hốc đá kín đáo trên vách, lấy ra một gói vải vuông vắn. Trong ấy chính là quyển "Oán thiên kiếm lục".

Sau bữa cơm trưa đạm bạc ăn với nấm khô kho muối, Chân Nhân lập tức bắt tay vao việc giảng giải chiêu đầu tiên có tên là "Hoàng thiên bất tiếu" (Trời chẳng biết cười)

Cũng như chiêu này, sáu chiêu còn lại đều mang những cái tên đầy phẫn nộ, oán trách ông trời. Nhờ Chân Nhân tỉ mỉ chỉ điểm từng thế thức từng yếu quyết biến hóa nên một kẻ có căn cơ thượng thặng như Tử Khuê dễ dàng hoàn thành chiêu kiếm lúc chiều buông. Tất nhiên là chưa đến mức tinh thông, vì việc này đòi hỏi thời gian và sự khổ luyện không ngừng.

Trong lúc học trò luyện kiếm thì sư phụ nấu cơm. Chân Nhân ăn vội hai chén rồi hạ sơn, để Tử Khuê ở lại Oán Thiên động, tiếp tục suy ngẫm về chiêu kiếm, cạnh đống lửa bập bùng.

Không vướng bận Tử Khuê, Chân Nhân lướt đi như gió thoảng, nhảy những bước dài, hạ thân xuống những mỏm đá chênh vênh hiểm nghèo. Gần canh giờ sau ông đã có mặt trên núi Vọng Vân, ẩn mình nghe ngóng. Lúc này Âu Dương Mẫn và bọn thủ hạ đã chiếm lĩnh bình đài, từ trong đạo am và tòa tiểu viện chổ ở cũ của vợ chồng Quách Thiên Tường. Số còn lại mai phục lưng chừng sơn đạo, ý như chờ đợi thầy trò Tử Khuê trở về. Nhưng Vu Mộc Chân Nhân đã lên núi bằng đường khác, âm thầm áp sát đạo am, nơi có hai lão nhân đang uống trà trò chuyện.

Người thứ nhất mặc trường bào xanh, viền trắng, mặt mũi tuấn tú thêm phần oai vệ bở bộ râu ba chòm cùng nhãn thần sáng quắc. Dung mạo lão có phần đường chính, song đôi huệ nhãn của Vu Mộc Chân Nhân đã phát hiện ra thần khí của lão là đại ác. Trong phép xem tướng của Trung Hoa, sắc diện là vẻ ngoài, thần khí là bản chất, chỉ những bậc Chân Nhân mới nhìn ra.

Người thứ hai là một lão đạo sĩ râu tóc hoa râm, tuổi độ bảy mươi, mặc đạo bào màu xanh nhạt. Tướng người này mập mạp phương phi, mặt tròn nung núc thịt mũi tẹt, môi dày, mắt híp tựa hai sợi chỉ. Vu Mộc Chân Nhân không biết người áo xanh nhưng lại rất rành lai lịch lão đạo sĩ to béo kia. Lão ta từng lừng danh võ lâm với mỹ hiệu Diệu Thủ Thần Cơ.

Tư Mã Uy là đệ tử phái Hoa Sơn đã bị trục xuất từ bốn mươi năm trước. Tuy nhiên, lão không bộ mặt ác và luôn miệng xưng bần đạo.

Tư Mã Uy cơ trí tuyệt luân, đa mưu túc kế, bụng đầy thao lược và còn là một vị thần y. Do đó, lão mới được giang hồ đặt cho danh hiệu ấy.

Nhưng khổ thay, Diệu Thủ Thần Cơ lại dâm đãng phi thường, làm cho hàng chục nữ đạo cô phải thất tiết. Thế là phái Hoa Sơn đành phải cắn răng đuổi cổ gã đệ tử kỳ tài.

Năm ấy, Tư Mã Uy mới tròn tam thập.

Rời Hoa Sơn, Diệu Thủ Thần Cơ đến Chương Phàn, cạnh bờ sông Hán Thuỷ, đoạn thuộc tỉnh Hồ Quảng mà cư trú, lập nghiệp bằng nghề thầy thuốc.

Đại phu là cái nghề vừa có tiền lại vừa được tri ân. Bệnh nhân dù bị cứa cổ, vét sạch hầu bao song vẫn nhớ ơn, quý hồ khỏi bệnh và Tư Mã Uy lại là một thần y có thực tài, chữa đâu khỏi đó. Trừ tứ chứng nan y, lão chưa hề bó tay trước bất cứ loại bệnh nào, dù nội khoa hay ngoại khoa.

Tư Mã Uy lại có tài mổ xẻ thuộc hàng thượng thặng, chẳng kém gì Hoa Đà thời Tam Quốc. Bởi thế cho nên lượng khách nữ nhân của lão rất đông đảo. Những nét xấu xí như nốt ruồi, mụn cóc, vết chàm... đều biến mất.

Thậm chí, Tư Mã Uy còn vá dược sứt môi hoặc nâng cao sống mũi xẹp của một cô gái sinh ra trời bắt xấu.

Khi giải phẫu, Tư Mã Uy thường cho bệnh nhân uống "Ma phí tán" để tránh đau đớn.

Khi tỉnh dậy họ thấy mình đẹp hơn xưa nên vui lòng bỏ qua việc bị gian dâm. Vả lại, khai ra thì càng thêm xấu hổ, khó mà sống nổi.

Với mối quan hệ ngày càng rộng rãi, đầy ắp ân tình đến năm tứ thập thì Tư Mã Uy trở thành quân sư quạt mo của giới Hắc đạo.

Lão đã dùng cơ trí siêu phàm của mình để xếp đặc kế hoạch, tổ chức những cuộc đánh cướp vô cùng táo bạo, tinh vi chấn động cả triều đình và võ lâm. Nhưng việc này chỉ vài người biết, trong số đó có Vu Mộc Chân Nhân.

Tư Mã Uy rất gian ngoan ăn vụng khéo chùi mép, chẳng hề sơ xuất.

Năm ấy, giang hồ nổi lên một tổ chức cường đạo thần bí tên gọi Huyết Mai Hội. Bọn này hành sự cực kỳ tàn ác, đã cướp của lại còn tàn sát cả gia đình nạn nhân. Đáng sợ nhất là những thủ đoạn tra tấn dã man để bắt khổ chủ phải khai ra chỗ giấu tài sản.

Chúng còn để lại hiện trường một đoá hoa mai sáu cánh bằng lụa đỏ như máu, để khoe khoang rằng đây là lãnh địa của mình.

Trong bốn mươi năm chúng đã thực hiện sáu mươi vụ án lớn, giết hại hơn ba trăm người và lấy đi số của cải có trị giá lên đến hai trăm vạn lượng hoàng kim.

Lực lượng bộ đầu và công sai các tỉnh Hà Nam, Sơn Tây, Hà Bắc bị triều đình khiển trách nặng nề nên đã ráo riết truy lùng, rình rập Huyết Mai Hội chủ. Họ đặt bẫy quanh những nhà đại phú và đã vài lần vây được con mồi nhưng lần nào cũng tóm hụt. Lý do là bản lĩnh của bọn Huyết Mai Hội rất cao cường, nhất là tên thủ lĩnh.

Đao pháp của Huyết Mai Hội chủ đã đến mức xuất thần nhập hoá, đường đao nhanh nhẹn, độc ác và mãnh liệt phi thường. Khi sa vào trận địa mai phục của quan quân, lão ta phóng tay chém giết phá vây mà dẫn thủ hạ đào tẩu an toàn. Số người của Nha môn chết dưới tay lão cũng hơn con số một trăm.

Quân triều đình bất lực phải cầu viện đến giới võ lâm, Minh chủ lúc ấy là Hoàng Hà Thần Côn Giả Nam Long, đệ tử tục gia phái Thiếu Lâm, ông ta liền huy động hào kiệt Trung Nguyên tham gia việc tảo trừ Huyết Mai Hội.

Bảy tháng sau, chính Vu Mộc Chân Nhân là người tìm ra chổ ẩn thân của Huyết Mai Hội chủ. Một hôm ông đến ngoạn cảnh Vân Vụ sơn, ngọn cực Nam của rặng Thái Hoàng, nằm trong điạ phận Hà Nam. Núi này có thắng cảnh nổi tiếng là "Vân Vụ giản" khe nứt sâu hun hút, quanh năm mờ mịt khói sương. Một buổi bình minh hoặc hoàng hôn, "Vân Vụ giản" biến thành một bức tường mây đầy những mống cầu vồng rực rỡ và diễm lệ.

Đã sáu năm mới quay lại thăm cảnh cũ, Chân Nhân ngỡ ngàng nhận ra giờ đây có một tòa trang viên đồ sộ, kín cổng cao tường, chễm chệ nằm trên bờ vực.

Tình cờ Vu Mộc Chân Nhân bắt gặp Diệu Thủ Thần Cơ Tư Mã Uy đang rời khỏi nơi ấy, nón rộng vành sùm sụp che kín nửa mặt như chẳng muốn ai nhận ra.

Do biết rõ Tư Mã Uy là quân sư của giới đạo tặc nên Chân Nhân sinh lòng nghi ngờ chủ nhân của tòa trang viện tráng lệ kia. Ông ở lại Vân Vụ sơn ba đêm mà rình rập.

Cuối cùng, Chân Nhân phát hiện ra sào huyệt của Huyết Mai Hội chủ. Chân Nhân liền xuống núi, đi thẳng lên Tổng đàn Võ lâm trên núi Quảng Sơn, báo cho Giả Minh chủ biết. Hoàng Hà Thần Côn vui mừng khôn xiết, huy động toàn bộ lực lượng của Tổng đàn và mời thêm hơn trăm cao thủ Thiếu Lâm Tự mà kéo đến Vân Vụ sơn.

Bị tập kích bất ngờ bởi một lực lượng quá mạnh nên Huyết Mai hội chủ không thể nào địch lại. Còn việc đào vong thì vô vọng vì sau lưng họ là vực thẳm. Rốt cuộc, hơn trăm gã hung thần đã phải đền tội, kẻ bị giết, người thì tự sát. Chúng biết rằng nếu bị bắt sống thì cũng không tránh khỏi án chém của triều đình và còn liên lụy đến gia đình, tủi hổ tông môn.

Riêng Huyết Mai Hội chủ thì thần dũng vô song, giết chết mười thấy cao chủ chùa Thiếu Lâm và đả thương Minh chủ Giả Nam Long rồi mới bị đánh văng xuống vực thẳm.

Cho đến tận lúc ấy, người ta vẫn không thấy được chân diện mục của Huyết Mai Hội chủ, vì lão đã kịp bịt khăn ngang mặt.

Cớ sự ấy cách nay đã hai mươi lăm năm bỗng ập về trong tâm tưởng Vu Mộc Chân Nhân như tia chớp kinh hoàng, vì ông nghe được câu nói của Diệu Thủ Thần Cơ Tư Mã Uy:

- Điền đại ca? Tiểu đệ không ngờ đại ca lại thoát chết dưới vực thẳm "Vân Vụ giản" hóa thân thành Lư Châu Đại Hiệp và chiếm được ngôi Minh chủ Võ lâm. Nay đại ca có lòng thương tưởng, tiểu đệ nguyện đem chút tài mọn ra phò tá.

- Năm xưa, khi bị Giả Nam Long và bọn lừa trọc Thiếu Lâm đẩy rơi xuống khe sâu, lão phu may mắn sống sót, lại còn tìm được linh quả và bí kíp, lòng những tưởng mình được trời già ủng hộ. Nào ngờ, khi Điền Sĩ Lệ ta sắp thâu tóm được cả võ lâm thì lão Hoàng thiên chết toi ấy lại sinh lòng đố kỵ, hai lần sai Thiên Lôi giáng họa. Phải chăng đã đến lúc lão phu phải gánh chịu quả báo của những tội ác mà Huyết Mai Hội chủ đã gây ra thuở trước.

Diệu Thủ Thần Cơ cười ngặt nghẽo:

- Đại ca quả là lẩn thẩn, làm gì có trời hay quả báo. Vũ trụ vận hành theo những quy luật tất nhiên, nhưng không thể tuyệt đối chính xác nên những yếu tố ngẫu nhiên vẫn tồn tại song song. Còn nếu đúng là trời xanh có mắt sai Thiên Lôi diệt kẻ ác thì tiểu đệ đã chết từ lâu rồi.

Điền Sĩ Lệ tức Âu Dương Mẫn bán tín bán nghi, cau mày bác lại:

- Thế tại sao theo lời kể của Nhâm Đức Tín thì em vợ gã là Quách Tử Khuê đã năm lần bị sét đánh, dù nhà cửa thấp hơn những cơ ngơi chung quanh.

Tư Mã Uy gật gù đắc ý, giải thích thêm:

- Việc ấy chẳng có gì là huyền bí cả tiểu đệ đã nhiều năm nghiên cứu những hiện tượng này và phát hiện ra rằng trong vài chục vạn người sẽ có một hai người bẩm sinh kỳ lạ như gã Tử Khuê. Trong cơ thể gã tiềm tàng một luồng nhân điện mạnh mẽ hơn chúng ta. Do đó, sẽ thu hút những tia sét nếu chung quanh không có mục tiêu nào mang hấp lực mạnh hơn. Phục Lôi Thần Quân Thương Vô Hoán cũng ở trong trường bợp ấy.

Tư Mã Uy nhấp hớp trà rồi tiếp lời:

- Có thể là chính đại ca cũng rơi vào cảnh ấy, sau khi luyện thành "Thiết Sa thần công". Hai mươi năm ngâm mình trong thiết thủy đã khiến cơ thể đại ca nhiễm đầy chất sắt.

Âu Dương Mẫn tỉnh ngộ, vỗ đùi cười dài:

- Tư Mã lão đệ quả là kiến văn uyên bác, trí tuệ vô song, đã xua tan đám mây mù trong lòng lão phu. Nếu không có trời và luật nhân qua thì Điền mỗ còn phải sợ gì ai nữa. Chỉ cần tìm được "Tỵ Lôi thần châu" là lão phu có thể an tâm thống trị võ lâm.

Và lão bỗng nghiến răng trợn mắt:

- Đã đến lúc lão phu thiêu hủy Thiếu Lâm Tự và giết sạch bọn lừa trọc để báo phục mối hận năm xưa.

Nghe đến đây, Vu Mộc Chân Nhân chột dạ, hiểu rằng võ lâm sắp rơi vào cảnh suối máu rừng xương. Sau Thiếu Lâm Tự sẽ là năm phái Bạch đạo kia, vì lực lượng cận vệ Tổng đàn Võ lâm ngày ấy đều là cao thủ của họ.

Một kẻ ác độc và thù dai như Điền Sĩ Lệ gã không bao giờ bỏ qua mối hận nào dù rất nhỏ. Và trước mắt, người bị nguy hiểm nhất chính là Quách Tử Khuê. Bằng mọi giá, Âu Dương Mẫn sẽ phải giết chàng đề đoạt lấy "Tỵ Lôi thần châu".

Vu Mộc Chân Nhân rầu rĩ rời Vọng Vân sơn, tìm chỗ nghỉ ngơi, chờ rạng sáng mới trở về Oán Thiên động.

Kể từ hôm ấy, đêm đêm Chân Nhân lén điểm huyệt ngủ của đồ đệ rồi san sẻ chân nguyên. Giới hạn của việc này là mười năm tu vi, vượt quá thì người cho bị tổn thọ nặng nề và có thể vong mạng.

Tình phụ tử là một bản năng mãnh liệt của con người. Tuy Chân Nhân xuất gia từ nhỏ, phát nguyện tu tiên song khi gần gũi Tử Khuê đã vô tình yêu thương chàng như con ruột. Giờ đây Chân Nhân quyết định chấp nhận lìa đời sớm để học trò đủ công lực mà đối phó với một cường đạo như Điền Sĩ Lệ.

Giữa tháng mười Tử Khuê đã hoàn tất bảy chiêu "Oán Thiên kiếm pháp". Sáng ngày mười sáu khi chàng thức giấc thì phát hiện ân sư đã tọa hóa trong thế kiết già, trước mặt đặt một phong thư dày.

Tử Khuê đau lòng khóc lóc thảm thiết, rất lâu sau mới trấn tĩnh lại được, mở di thư xem.

Trong thư, Vu Mộc Chân Nhân kể rõ lai lịch của Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn, cũng như sự phản bội của Nhâm Đức Tín.

Ông cảnh báo những nguy hiểm mà Tứ Khuê sẽ gặp phải sau này, nhất là khi trở lại Hứa Xương. Chân Nhân cũng dạy đồ đệ đi tìm một người để có trợ thủ đối phó với kẻ thù.

Tuy nhiên, Chân Nhân tuyệt đối không tiết lộ việc mình hi sinh tính mạng mà tuyền chân nguyên. Do đó, Tử Khuê hoàn toàn không biết rằng hiện nay công lực mình đã tăng gấp bội, hoàn thành lớp thứ bảy của "Thao Quang tâm pháp"


trước sau
Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!