Đêm ấy, trong lúc tân lang và tân nương vầy duyên cá nước, lạc bước Vu Sơn thì Tử Khuê gặp ma. Chàng đang mơ màng giấc điệp thì nghe có tiếng gọi nhỏ :
- Quách công tử! Quách công tử!
Tử Khuê giật mình thức dậy, điếng hồn nhận ra một bóng đen đang đứng lù lù cạnh giường. Chàng ngồi bật lên, kinh hãi đến mức cứng cả quai hàm, chẳng nói nên lời, chỉ trố mắt nhìn lão già áo đen, râu ria bờm xờm.
Lão ta mỉm cười trấn an :
- Lão phu là Lỗ Trục đây, công tử chớ sợ.
Dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu khâu nhỏ, hàm răng lão trắng nhỡn nhưng không đáng sợ vì chẳng có răng nanh. Tử Khuê thở phào ấp úng:
- Té ra là Lỗ phán quan! Chẳng hay túc hạ tìm Quách mỗ vì chuyện gì?
Lỗ Trực ngồi xuống cạnh giường vui vẻ nói:
- Lão phu chán nghề phán quan nên đã xin Diêm Vương đổi làm Chiêu Vong tuần sứ, lo công việc dẫn độ những oan hồn vất vưởng trong thiên hạ về "Quỷ môn quan".
Gương mặt lão đoan chính, uy nghiêm nhưng khá thân thiện khiến Tử Khuê bớt ái ngại. Chàng cười bảo:
- Đáng lẽ Quách mỗ phải có chén rượu để mừng cho túc hạ mới phải đạo. Tiếc rằng đêm đã khuya, xin hẹn dịp khác.
Lỗ Trực lộ sắc mừng:
- Nếu công tử không tỵ hiềm âm dương cách biệt thì lão phu sẽ rất vui mừng được cùng nhau đối ẩm. Từ sau trận tỷ quyền ở Hầu phủ, Lỗ mỗ rất ngưỡng mộ công tử, muốn được kết làm bằng hữu.
Tử Khuê bối rối đáp:
- Niên kỷ của Lỗ túc hạ còn hơn cả gia phụ, làm sao tại hạ dám tự xưng bằng hữu?
Lỗ Trực mỉm cười lắc đầu:
- Trong vòng luân hồi, mỗi chúng sinh đều trải qua hàng trăm nghìn kiếp, sao có thể nói ai già hơn ai? Công tử cứ gọi lão phu là Lỗ đại ca là đủ rồi!
Tử Khuê nghe cũng có lý, ôm quyền vái:
- Tiểu đệ bái kiến đại ca!
Lỗ Trực vái trả rồi phấn khởi bảo:
- Lão phu phải kiếm mấy cân rượu để uống mừng mối giao tình hiếm có này mới được. Hiền đệ hãy chờ ta một chút.
Lão nói xong thì biến mất chẳng chút tăm hơi, lát sau quay lại với vò rượu lớn và một đùi dê nướng. Hai thứ này chắc là của nhà bếp Lư gia trang.
Trong phòng ngủ Tử Khuê có một chiếc bàn nhỏ, nơi đặt đĩa đèn dầu lạc cùng hai chiếc ghế đôn. Hai người ngồi ở đấy mà thù tạc, chuyền tay nhau vò rượu và đùi dê, ăn uống rất thâm tình.
Lỗ Trực cười nói sảng khoái thế mà chẳng đánh động đến bất cứ ai ở những phòng bên. Tử Khuê kinh ngạc hỏi han thì lão đắc ý giải thích:
- Hiền đệ cứ yên lòng. Khi lão phu không muốn thì ngoài ngươi ra chẳng ai có thể nhìn thấy hoặc nghe được giọng nói của lão mỗ cả.
Chợt lão chính sắc bảo:
- Quách hiền đệ! Hôm nay lão phu đến tìm ngươi là vì có chuyện quan trọng. Mong ngươi cố bình tâm mà nghe tin dữ. Thiên cơ bất khả lậu nên lão phu chỉ có thể tiết lộ sơ lược rằng cuộc đời hiền đệ vô cùng sóng gió, đầy dãy tai ương. Bởi vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào ngươi cũng không được phép tuyệt vọng, chán nản mà phải kiên cường tồn sinh bằng cái tâm của một kẻ hiểu rõ đạo đời.
Tử Khuê chột dạ đáp:
- Tiểu đệ ngu muội, chẳng dám chắc hiểu được đại đạo, chỉ cố giữ tấm lòng nhân hậu. Nhưng giang hồ ân oán triền miên, tay tiểu đệ đã nhiều lần nhuốm máu, lòng vô cùng hổ thẹn và chắc rằng không tránh khỏi nghiệp quả xấu.
Lỗ Trực nở nụ cười độ lượng:
- Hiền đệ đã đi đúng hướng rồi đấy. Đức nhân chính là đạo trời. Hổ dữ cũng là chúng sinh nhưng kẻ giết hổ để tự vệ, để bách tính được yên vui thì không tạo sát nghiệp. Tuy nhiên không sát sinh thì vẫn tốt hơn, sau này hiền đệ hãy cố chừa cho đối thủ một cơ hội hồi đầu hướng thiện.
Tử Khuê gật đầu tỏ vẻ hiểu ý và tò mò hỏi:
- Lỗ đại ca! Thần thánh của Đạo giáo và Phật giáo chẳng giống nhau, kinh nghĩa cũng vậy. Thế thì thực ra ai đúng ai sai, ai có ai không?
Lỗ Phán Quan cười khanh khách đáp:
- Hiền đệ cứ nên tin rằng chư Phật hay Tam Thanh đều hiện hữu và giáo lý của họ đều cần thiết cho cuộc sống này.
Rồi lão nói lảng sang chuyện khác:
- Này Quách hiền đệ! Sáng mai ngươi không cần phải đi Hồ Nam nữa.
Tử Khuê ngơ ngác hỏi lại:
- Tại sao vậy?
Lỗ Trực bùi ngùi đáp:
- Lệnh sư thúc Kỳ Hoàng Chân Nhân Cổ Sĩ Hoành đã chết đêm hôm kia rồi. Đúng ra lão ta còn thọ được mười hai năm nữa, song do kẻ thù phép thuật quá cao cường, đã dùng phép "Ám tinh đoạn thần" giết chết Cổ Chân Nhân trong Quỷ trận.
Tử Khuê đau đớn hỏi:
- Lỗ đại ca! Chẳng hay hung thủ là kẻ nào vậy?
Lỗ Phán Quan tư lự đáp:
- Người ấy là Quân Sơn Chân Nhân Đường Mai Giản, trên núi Quân Sơn giữa hồ Động Đình. Lão ta tuổi độ bát thập, võ nghệ cao cường, tinh thông võ trận kỳ môn lẫn yêu thuật. Đường Mai Giản vốn là bằng hữu với Cổ Sĩ Hoành và ba năm trước có mượn của họ Cổ mảnh "Chiếu yêu Bát quái bảo kính", vật trấn sơn của Huyền Hư phái ngày xưa. Do Cổ Chân Nhân tin rằng Quách hiền đệ sẽ khôi phục lại tông môn Huyền Hư phái nên ông ta đã đến Quân Sơn đòi lại bảo kính, vật tượng trưng cho quyền chưởng môn nhân. Nào ngờ lão chết toi Đường Mai Giản lại rắp tâm chiếm đoạt bảo vật, đã lừa Cổ Sĩ Hoành vào "Oan hồn quỷ trận" mà sát hại. Sau đó họ Đường đốt xác nạn nhân, rải xuống hồ để phi tang.
Tử Khuê nghe xong căm hận bảo:
- Tiểu đệ thề sẽ rửa thù cho sư thúc và đoạt lại bảo vật của sư môn.
Lỗ Trực cau đôi mày lưỡi mác, trầm ngâm suy nghĩ một lúc lâu mới nói:
- Ngươi không cần phải đi. Ít tháng nữa Đường lảo quỷ sẽ vào đất Hà Nam này. Lúc ấy ngươi báo thù cũng không muộn.
Tử Khuê sực nhớ đến chuyện hôm trước, đỏ mặt trách móc:
- Sao đại ca lại dòm ngó chuyện phòng the của tiểu đệ?
Lỗ Phán Quan cười khà khà:
- Lão phu nào có hứng thú với chuyện ấy. Chẳng qua lão phu muốn thành toàn mối lương duyên của ngươi với nha đầu họ Dịch mà thôi. Từ nay lão phu chả bao giờ bén mảng đến khi ngươi đang hưởng lạc.
Và lão đắc ý kể công:
- Đáng lẽ ngươi phải tạ ơn Lỗ mỗ mới phải. Ta phải năn nỉ mãi nên cái lão Hoa Đà mới chịu dạy cho phương pháp trị bệnh lãnh cảm của Tái Vân đấy. Sau này nếu có dịp đi ngang núi Thiếu Hoa Sơn thì vợ chồng ngươi nhớ thắp nén hương cảm tạ lão ta.
Hai người chuyện trò, bàn bạc thêm một lúc lâu thì gà gáy sáng. Lỗ Phán Quan bưng vò rượu nốc cạn rồi cáo từ. Tử Khuê ngồi lại một mình, tiếc thương vị sư thúc tài hoa. Chàng thầm khấn vái hương hồn Cổ Chân Nhân và hứa với ông rằng sẽ phục hưng Huyền Hư phái để ông mỉm cười nơi chín suối.
Vài khắc sau, đoán rằng phụ mẫu đã dậy, Tử Khuê thay áo bước ra ngoài, tìm đến phòng của họ để vấn an.
May thay Trương Thiên Sư và bang chủ Cái bang cũng có mặt ở đấy, đang nói về cái chết của Cửu Hoa Thánh Y. Lỗ Phán Quan đã ứng mộng thông tin cho Trương Sách biết việc ấy.
oOo
Gần giữa tháng bảy, đoàn người về đến Hứa Xương và khoảng đầu tháng tám thì Quách Thiên Tường tiến hành việc tu sửa Quách gia trang để sửa soạn đám cưới Tử Khuê. Hôn lễ sẽ cử hành vào tháng tư sang năm.
Đồng thời cũng ở gần đó, một toà Kỹ gia trang cũng được xây dựng gấp rút. Kỹ Tòng Thư quyết định ở lại Hứa Xương để an dưỡng tuổi già, bên cạnh vợ chồng em gái và các cháu.
Công trình sư của cả hai công trình ấy chính là chàng xấu trai Tang Đông Dã. Dưới sự chỉ huy của gã, bốn mươi hai tên hàng binh Xoa Lạp Cốc kiến tạo một mật thất cực kỳ kiên cố và đầy dẫy những cơ quan tinh xảo, phía dưới vườn hoa lối sau Quách gia trang. Khi nguy biến mọi người có thể ẩn nấp ở đấy mà không sợ chết đói. Lúc bình thường, mật thất sẽ là nơi luyện võ kín đáo của Tử Khuê.
Dù rất muốn gần gũi tình lang nhưng vì thân phận tôn quý mà nữ Hầu tước Trình Thiên Kim phải quay về Hầu phủ, để một mình Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân đến Quách gia trang hầu hạ cha mẹ chồng.
Nhưng Tái Vân chỉ hưởng lợi thế được đúng hai tháng thì Tử Khuê lại phải lên đường. Lão chết tiệt Lỗ Phán Quan đã xuất hiện đêm đầu tháng mười, báo rằng Quân Sơn Chân Nhân có mặt ở Lạc Dương. Lão ta còn không cho Tái Vân đi theo Tử Khuê, viện cớ rằng nàng đã thoát khỏi cơn giận của Lôi Thần, chẳng cần bám lấy Tử Khuê nữa.
Đêm ấy Lỗ Trực đã nhậu nhẹt với Quách Thiên Tường và Kỹ Tòng Thư khá lâu. Được đối ẩm với ma là cơ hội ngàn vàng nên hai lão nhân vật cao hứng, uống thả giàn và say bí tỷ.
Sáng mùng hai, Tử Khuê một mình một ngựa rời Hứa Xương. Từ Hứa Xương đi Lạc Dương, lữ khách phải ngang qua Đăng Phong, nên trưa ngày mùng sáu Tử Khuê có mặt ở đấy. Chàng rất ngạc nhiên khi thấy trong thành Đăng Phong đầy dẫy những khách giang hồ. Hiện tượng này chỉ xảy ra khi một địa phương sắp có biến cố hay thịnh hội gì đó. Nhưng Đăng Phong rất gần núi Tung Sơn, vậy phải chăng chính Thiếu Lâm Tự là nguyên nhân ?
Đến trước cửa Khai Tân đại phạn điếm, Tử Khuê nhận ra bên trong có hàng trăm hào kiệt đang cười nói oang oang. Chàng liền dừng cương hạ mã và được gã tiểu nhị chào mời. Vào trong quán thấy Giáo chủ Thiên Sư Giáo, Huyền Thiên Chân Quân Trương Sách đang nhìn ra ngoài, bất giác Tử Khuê định thi lễ. Nhưng Trương Thiên Sư lại chẳng hề lộ vẻ gì là quen biết, khiến chàng nhớ lại rằng mình đang hoá trang, liền đi tìm bàn trống mà ngồi.
Trong cuộc tồn sinh con người luôn tìm cách để khẳng định bản thân chính mình trước tha nhân. Thậm chí đại đa số nhân loại còn sa vào tật háo danh. Cho nên cảm giác của một kẻ luôn phải giấu mặt quả là chẳng hay ho gì. Tuy nhiên Tử Khuê lại mãn ý về điều này, khi mà chàng không háo danh và coi trọng an nguy của người thân hơn tất cả.
Tử Khuê gọi một mâm cơm và bình rượu nhỏ. Đầu Đông tuyết chưa rơi, nhưng trời đã lành lạnh nên chàng định dùng vài chung cho ấm.
Trong lúc chén thù chén tạc, Tử Khuê lắng nghe câu chuyện riêng của thực khách và hiểu ra nguyên cớ. Té ra hôm mùng một tháng chín vừa qua, hơn ngàn khách hành hương đã nhìn thấy Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn xuất hiện trên bầu trời Thiếu Thất sơn. Và xui xẻo cho họ Lục là lúc ấy có mặt Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết, cung thủ giỏi nhất võ lâm đương đại.
Phan lão có thân hình khôi vĩ, thần lực kinh nhân, sử dụng một cây "Chấn Thiên Cung" cánh thép, lớn gấp rưỡi trường cung bình thương. Mũi tên của lão bằng thép, bay xa hàng dặm mạnh mẽ đến mức có thể bắn xâu táo một lúc bảy tám người.
Hôm đó Phan Nguyên Kết lên chùa Thiếu Lâm để xin cho con trai mình vào học võ. Khi phát hiện ra cánh chim khổng lồ của Phi Điểu Thần Ma, Phan lão nhớ ngay đến món tiền thưởng ba ngàn lượng vàng mà Minh chủ Võ lâm đã rêu rao. Họ Phan mừng húm giương "Chấn Thiên Cung" trổ tài Dưỡng Do Cơ. Danh bất hư truyền, mũi tên của lão cắm vào bụng con đại bàng và còn xuyên thủng người Phi Điểu Thần Ma nữa. Nhưng con chim xấu số không chết ngay, theo bản năng mà xoè cánh cưỡi gió là đà rơi xuống vùng rừng rậm rạp bạt ngàn cách núi Thiếu Thất vài dặm về hướng Đông.
Rặng Tung Sơn có đến bảy mươi hai ngọn núi, sơn vực rất rộng và đầy cây cối, muốn tìm ra Phi Điểu Thần Ma chẳng phải dễ. Nhưng cây "Diêm Vương quỷ kỳ" oai lực vô song, ảnh hưởng rất lớn đến vận mệnh của võ lâm, nên Thiếu Lâm Tự đã huy động toàn bộ tăng lữ trong chùa truy tầm Phi Điểu Thần Ma.
Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết không dám tranh giành với phái Thiếu Lâm, hậm hực xuống núi. Lão ta mất giải thưởng ba ngàn lượng vàng nên đi thẳng đến Tổng đàn Võ lâm ở Trịnh Châu mà báo công. Dọc đường họ Phan còn loan báo rộng rãi tin này khiến cả giang hồ chấn động, lũ lượt kéo về núi Tung Sơn tìm vận may.
Ngoài Minh chủ Võ lâm và ba trăm thủ hạ, các lực lượng chính ta hùng hậu khác đều đến nơi. Nghe nói có cả Chiết Mai bang, Bích Huyết bang và Xoa Lạp Cốc. Điều này hứa hẹn một cuộc chiến long trời lở đất nếu chùa Thiếu Lâm tìm được Phi Điểu Thần Ma trước. Do đó Cái bang đã thả chim câu gửi thư hoả tốc, mời các phái trong Hội đồng Võ lâm đến hỗ trợ Thiếu Lâm Tự.
Nghe xong Tử Khuê bâng khuâng suy nghĩ:
- Tung Sơn cũng thuộc địa phận phủ Lạc Dương. Có lẽ gã chết toi Quân Sơn Chân Nhân đã đến đây vì việc "Diêm Vương quỷ kỳ", nên Lỗ đại ca mới bảo ta như thế. Hơn nữa Đại Giác Thiền Sư là bậc cao tăng đáng kính, ta không thể đứng ngoài cuộc được.