Dù lòng còn phấp phỏng nhưng ông vẫn phải chiều ý người vợ trẻ đẹp, hiền thục. Nhị phu nhân Từ Lan nhan sắc phi phàm và trẻ hơn chồng đến hai mươi tuổi. Bà còn ha sinh một nam tử là Mẫn Hiên khiến tông tự họ Tiêu không đứt đoạn. Do vậy, Tiêu trang chủ yêu thương bà tha thiết.
Biết cửa sắp được mở, Tử Khuê vội nói:
- Mẫu thân à, hài nhi cần một bộ y phục.
Từ nương bật cười:
- Mẫu thân có mang theo sẵn trong người nhưng vì quá vui mừng mà quên mất.
Nói xong, bà đút qua khe một bọc vải có tấm trường bảo gấm xanh, áo trong, đồ lót và đôi giày vải. Lạ thay, chúng khá vừa vặn dù Từ nương chưa bao giờ nhìn thấy vóc dáng Tử Khuê.
Khi cửa mở toang, Tử Khuê mới hiểu ra nguyên nhân. Thân hình chàng và Tiêu trang chủ có kích thước tương tự.
Chàng chưa kịp quan sát kỹ gương mặt của lão già quắc thước, râu ba chòm oai vệ kia thì bị một phu nhân áo đen ôm chầm lấy. Chàng thoáng nhận ra rằng Tiêu phu nhân khá giống mẹ mình.
Những ngày sau đó, Tử Khuê không hề gặp phải khó khăn gì. Ai cũng tin tưởng và vui mừng khi thấy nhị công tử đã bình phục, trở thành thanh niên tráng kiện, tuấn tú.
Chỉ mình đại tiểu thư Tiêu Dị An là gượng cười, buồn nhiều hơn vui. Nhưng nàng không còn cơ hội để ám hại đứa em cùng cha khác mẹ nữa. Lúc nào cũng có bốn người lẫn quẫn cùng nhị công tử, bất kể ngày đêm. Họ có trách nhiệm khống chế Mẫn Hiên khi gã có dấu hiệu phát cuồng trở lại.
Và Tử Khuê phát hiện ra rằng Tiêu gia trang đầy dẫy cao thủ. Từ vị tổng quản già nua đến gã gia đinh gác cổng. Chàng không thắc mắc mà chỉ dặn lòng thêm cẩn thận. Lòng thương con trời biển của Từ nương đã khiến Tử Khuê gọi bà là mẹ mà không hề ngượng miệng.
Từ nương chăm sóc chàng như đứa trẻ thơ, luôn kề cận kể lể mọi việc trong trang, cố giúp ái tử sớm hồi phục ký ức một cách trọn vẹn.
Trí nhớ của Tử Khuê thì mẫn tiệp phi thường nên chẳng hề quên cái gì cả. Chỉ sau nửa tháng, chàng đã thông thuộc tên tuổi từng người.
Tất nhiên, giờ thì chàng biết Tiêu trang chủ tên gọi là Tiêu Lạp Dân, tuổi chẵn sáu mươi. Ông ta còn là Ngân Diện Hầu đời thứ tư của Minh Triều.
Khi Tử Khuê giả vờ không nhớ, thắc mắc về cái tước hiệu kỳ quái ấy thì được Từ nương giải thích:
- Cao tằng tổ Tiên Phương là một kiếm khách. Ông ta thường mang một chiếc mặt nạ che đến mũi mà hành hiệp, nên được người võ lâm xưng tụng là Ngân Diện Kỳ Hiệp. Khi Thái Tổ hoàng đế Chu Nguyên Chương tiến đánh Sơn Tây, trúng mai phục của quân Mông Cổ ở gần Tỉnh Châu, sắp mất mạng thì được Tiên Phương cứu giá. Sau đó, họ Tiêu theo phò Minh Thái Tổ cho đến khi giang sơn được thu hồi trọn vẹn. Lúc luận công ban thưởng, được phong hầu, Tiêu cao tằng tổ đã xin cái danh hiệu Ngân Diện Hầu. Minh Thái Tổ chuẩn tấu, sai bộ công đúc một chiếc mặt nạ bằng bạc, pha thêm vàng và đồng cho cứng cáp, trên khắc dấu Ngọc Tỷ, rồi tặng cho họ Tiêu.
Bà mỉm cười kết luận:
- Hiên nhi biết không? Họ Tiêu chúng ta đã chuốc lấy khổ, vì lúc nào muốn đeo Kim bài, xưng Tước Hầu, thì mãi mang luôn cái mặt nạ nặng trịch, lạnh lẽo ấy. May cho ta là Hầu Tước phu nhân thì không phải mang mặt nạ.
Quen thói thân mật vui vẻ với mẹ hiền, Tử Khuê buột miệng nói đùa:
- Quả là may thật! Nếu không thì thiên hạ đã chẳng được chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt thế của mẫu thân.
Từ nương rất cao hứng vì được ái tử tán dương, song giả vờ trừng mắt mắng yêu:
- Hiên nhi chớ bẻm mép! Ta đã già nua còn đẹp đẽ cái nỗi gì nữa.
Chợt bà phát hiện mặt mình đang nóng bừng lên vì hãnh diện, vội đứng dậy mở tủ, lấy ra môt quyển sách mỏng, trao cho con rồi nói:
- Hiên nhi! Đây là bí lục võ công nhà ta, con hãy ôn luyện lại cho thuần phục để phụ thân vui lòng.
Ngoài bìa ghi bốn chữ "Tiêu gia bí kíp" song khẩu quyết bên trong giống hệt "Lôi Đình bí phổ", chỉ khác ở chỗ không có pho "Tiên nữ tùy phong", và hai pho kiếm chưởng thì thiếu sáu, bảy chiêu lợi hại nhất. Tử Khuê kinh ngạc khôn cùng nhưng không dám để lộ ra.
Vẻ mặt thẫn thờ của chàng đã khiến Từ nương ngộ nhận. Bà nở nụ cười hiền hòa và an ủi:
- Năm xưa, con đã từng thuộc lòng bí kíp này, cứ từ từ nghiên cứu sẽ nhớ lại thôi. Phần đường lối của chiêu thức, ta sẽ nhắc nhở, hướng dẫn cho.
Té ra Từ nương là bậc kỳ nữ xuất chúng, nắm vững tinh túy tuyệt học của Lôi Đình. Do bẩm sinh bất túc nên nội công chỉ có thành tựu giới hạn. Nếu không, bà đã là một cao thủ thượng thừa.
Trong suốt gần một tháng trời, bà cẫn mẫn dạy cho Tử Khuê từng thức kiếm, từng đường quyền. Nhờ vậy mà chàng tiếp thu rất nhanh. Kỳ công này chẳng làm ai tán thưởng vì họ cho rằng nhị công tử chỉ nhớ lại những gì học thuở niên thiếu. Song họ sẽ kinh ngạc nếu biết chàng thông thạo võ học Lôi Đình hơn cả Tiêu trang chủ. Chàng chỉ thiếu tuyệt kỹ "Phách không chưởng lực" vì kém hỏa hầu.
Bề ngoài, vẫn sử xự như mình chưa hồi phục trọn vẹn, ít nói và thỉnh thoảng lại mỉm cười vô cớ. Thật ra, trong lòng chàng rối như tơ vò chẳng biết giải quyết hoàn cảnh éo le này thế nào. Chàng thật tâm yêu thương Từ nương, không muốn bà phải khổ tâm thêm nữa. Và dẫu có trình bày sự thật thì cũng chẳng có ai tin, họ sẽ cho rằng bệnh chàng tái phát. Giả sử họ tin thì càng bội phần tai hại, vì chàng sẽ lấy đâu ra một gã Mẫn Hiên mà trả họ.
Cuối cùng, Tử Khuê quyết định đào tẩu trong dịp tết nguyên đán. Và chàng sẽ để lại một phong thư, trấn an vợ chồng Tiêu trang chủ rằng mình đi du ngoạn, mở rộng kiến văn. Về đến nhà, chàng sẽ thỉnh cho được Lỗ phán quan, hỏi cho rõ nội tình và hạ lạc của Tiêu Mẫn Hiên. Nếu gã còn sống thì chàng bắt họ Lỗ mang gã trả về Từ Thạch ốc.
Tử Khuê đã nhiều lần khấn vái, gọi tên nghĩa ca mà không thấy hiện ra. Chàng thầm trách lão đem con bỏ chợ, đưa chàng vào cảnh ngộ oái ăm này.
Do từ đầu đã nuôi ý định đào tẩu nên Tử Khuê dành nhiều thời gian lang thang khắp Tiêu gia trang, tức Hầu Phủ. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương xuất thân từ chốn bần hàn, thảo mãng nên cũng có chút máu khôi hài. Khi Tiêu Chương chê Tước Trung Dũng Hầu và đòi đổi thành Ngân Diện Hầu thì Minh Thái Tổ hơi phật ý. Ông ta chuẩn tấu song chơi lại bằng cách bắt họ Tiêu chỉ được xưng Hầu khi mang mặt nạ.
Đeo ngân diện cả ngày thì bất tiện, nhất là lúc Đông về, bạc sẽ lạnh tanh, da mặt khó chịu vô cùng. Thế nên con cháu họ Tiêu đành phải cho gia nhân, tỳ nữ gọi mình là trang chủ.
Cố sự trên giải thích việc vì sao chủ nhân Hầu phủ lại không được bọn người nhà xưng hô là Hầu Tước Đại Nhân. Hầu phủ của dòng họ Tiêu không nguy nga tráng lệ, song diện tích rất lớn, tường xây cao đến hai trượng, án ngữ mọi sự dòm ngó của người bên ngoài. Phía sau phủ là đại hoa viên rộng đến vài mẫu, trồng gần trăm cây Thủy Sam cổ thụ tuổi đến gần hoa giáp.
Thủy Sam là loại cây thân gỗ lớn, rụng lá, thuộc họ Sam, có thể cao đến mười hai trượng. Thân chính cao thẳng, cành nhánh vươn ngay về hướng nam bắc, đông tây xen kẽ nhau giống tháp nhọn. Lá Thủy Sam có dạng dày, dẹt, mọc hai bên, nhánh nhỏ, màu lá thay đổi theo mùa. Mùa Xuân lá màu nõn chuối non tơ mềm mại. Mùa Hè lá trở nên xanh biếc mượt mà đáng yêu. Mùa Thu lá chuyển vàng, mùa Đông chuyển sang màu hồng rồi rụng dần.
Thủy Sam là loại có sức sống mãnh liệt, tính thích ứng rộng rãi, sinh trưởng nhanh, mỗi năm cao thêm từ gang rưỡi đến bốn gang tay. Bởi vậy, Thủy Sam là báu vật trong ngành rồng rừng lấy gỗ. Thủy Sam là loại cây đặc hữu của Trung Hoa, có ở miền Đông Bắc từ nhiều triệu năm trước. Gần năm trăm năm sau, thời nhà Minh, người ta tưởng rằng Thủy Sam đã tuyệt chủng thì lại thấy hơn một ngàn cây ở huyện Lợi Xuyên, Hồ Bắc.
Tất nhiên là Tử Khuê không cần biết những điều ấy về Thủy Sam. Giờ đã là tháng chạp, nên cây chẳng còn chiếc lá nào. Chàng ngắm nhìn những cành cây trơ trụi, tưởng nhớ đến Quách gia trang, nơi cũng có vài cây như thế và chàng thầm tính toán việc trèo lên cây mà nhảy ra ngoài.
Hàng Thủy Sam cuối đại hoa viên cách tường bốn trượng bằng một con đường trải sỏi phẳng phiu. Trên đường ấy, lúc nào cũng có bọn gia nhân dắt chó đi tuần cả ngày lẫn đêm.
Ngoài ra còn có cả những chốt canh cố định, nhãn tuyến bao quát suốt con đường. Nếu Tử Khuê băng qua đường mà vượt tường thì sẽ bị phát hiện ngay. Và khi nhà họ Tiêu dùng chó đánh hơi mà truy đuổi thì chàng khó thoát nổi. Chàng cần vài khắc thời gian và không để đối phương biết mình ra bằng lối nào.
Tử Khuê gật gù hài lòng tin rằng từ ngọn cây cao mười trượng kia chàng có thể vượt qua khoảng cách bốn trượng ra ngoài tường một cách êm thắm. Thời điểm thích hợp sẽ là những ngày xuân, khi người ta vui say mừng năm mới.
Tiếng chân người phía sau nhắc nhở Tử Khuê nhớ trở ngại cuối cùng, đó là sự giám sát của hai gã cận vệ. Sau này, Tiêu trang chủ đã yên tâm hơn nên giảm số người canh chừng xuống còn hai. Nhưng hai gã này có võ công khá nhất, cơ trí cũng tinh minh, già dặn, hành vi cẩn trọng, chu đáo.
Họ là anh em ruột, mang họ Từ do phụ thân nhị phu nhân nuôi dưỡng. Vì mồ côi sớm, không biết cha mẹ là ai nên hai gã này mang họ ân nhân.
Từ lão gia nuôi trẻ mồ côi vì lòng nhân, chứ không phải với ý định nhận nghĩa tử, nên hai gã vẫn chỉ là nô bộc. Người giàu có rất thận trọng trong việc nhận con nuôi, để phòng hậu họa giành gia sản sau này, nhất là khi họ đã có con ruột.
Lúc Từ Lan xuất giá về làm dâu nhà họ Tiêu thì hai gã cũng đi theo vì trước giờ quen hộ vệ nàng. Tuy đã chính thức là gia đinh của Hầu phủ song họ luôn giành lấy trách nhiệm bảo vệ nhị phu nhân. Về sau, Từ nương đã sai họ bảo vệ Mẫn Hiên tức Tử Khuê.
Từ Phong ba mươi chín, Từ Vũ ba mươi tám tuổi, cao trung bình nhưng cơ thể rắn chắc, lực lưỡng. Tên thì hiền lành, song sắc diện lạnh như tiền, mắt loang loáng, thần sắc rất đáng sợ dù ngũ quan đoan chính, chẳng có chút dị dạng. Và dường như họ chỉ tươi cười khi tiếp cận Từ nương và Mẫn Hiên.
Tử Khuê đủ trình độ để biết hai gã ấy là đại cao thủ, cả kiếm thuật lẫn khinh công. Cảm động trước lòng trung thành của họ đối với Từ nương mà chàng yêu mến hai gã. Ngược lại, phong thái đôn hâu, điềm nhiên và dễ thân cận của Tử Khuê đã chinh phục được hai anh em họ.
Trang chủ phu nhân thấy vậy hài lòng khen:
- Không ngờ khi trưởng thành, Hiên nhi lại có được tính tình dễ mến như vậy. Năm xưa ta cứ lo khi lớn lên, ngươi sẽ cao ngạo, lạnh lùng như Dị An.
Nhưng đến tối hai mươi bốn tháng chạp thì xảy ra một biến cố đã làm đảo lộn hoàn toàn những mưu tính của Tử Khuê.
Sau nhiều đêm suy nghĩ, chàng đã có thể khẳng định rằng tám năm trước, chính đại tiểu thư Tiêu Dị An đã hạ độc Mẫn Hiên bằng "Cuồng Tâm tán". Và sau này, nếu Từ nương còn sinh nở được lần nữa thì đứa bé ấy cũng sẽ bị Dị An ám hại. Trước khi ra đi, Tử Khuê muốn đền đáp ân tình của Từ nương nên định sẽ bày cho bà cái phương pháp khôn khéo mà mẫu thân chàng đã sử dụng.
Cuối canh hai, Tử Khuê đi sang phòng của trang chủ phu nhân ở sát vách, cùng chung dãy bắc sương. Tiêu trang chủ vắng nhà đã hơn nửa tháng. Từ nương hớn hở hỏi:
- Trời lạnh căm căm sao Hiên nhi không đi nghỉ sớm, còn sang đây làm gì?
Tử Khuê ngồi xuống đôn gỗ hòa nhã đáp:
- Hài nhi buồn về thái độ lạnh nhạt của đại thư nên khó ngủ. Hài nhi mong mẫu thân lên tiếng, chia cho nàng ta một nửa gia sản để tránh cảnh nồi da xáo thịt.
Từ nương mỉm cười chua chát:
- Hiên nhi lầm rồi! Từ nhiều năm nay phần thừa kế đã được chia đôi. Dị An ghét ngươi vì muốn tranh giành chức Hội chủ Hoạch Đầu Hội đấy thôi.
Tử Khuê bàng hoàng như bị sét đánh ngang tai, chết điếng cả người. Ai lại có thể ngờ đến việc Ngân Diện Hầu phủ lại là sào huyệt của tổ chức giết thuê lừng danh Trung Thổ cơ chứ?
Song Tử Khuê phải mau mau trấn tĩnh, cố không để lộ sự sợ hãi và kinh ngạc tột độ của mình. Chàng đang là Mẫn Hiên, mới tỉnh táo sau tám năm mê muội, không biết gì cả.
Tử Khuê đứng lên, giả vờ đi khép cánh cửa sổ, tranh thủ chút thời gian cho sắc diện bình thường trở lại. Chàng quay về quế rồi từ tốn nói:
- Mẫu thân chưa từng nhắc nhở nên hài nhi không nhớ nổi việc này.
Từ nương nhìn chàng bằng ánh mắt xót xa và bảo:
- Thật tâm ta cũng muốn Hiên nhi quên hẳn vì không dính dáng gì đến cái tổ chức nhơ nhớp ấy. Nhưng số trời đã định, ta không sao cưỡng lại được. Ngày mai phụ thân ngươi sẽ hồi phủ và tổ chức đại hội thường niên. Ngươi sẽ được giới thiệu với tư cách Thiếu Hội Chủ và tham gia điều hành sự vụ để vài năm nữa kế vị ngôi Hội Chủ.
Tử Khuê nghe gáy lạnh toát, rầu rĩ khoái thác:
- Hài nhi mới khỏi bệnh, chỉ muốn được đi du ngoạn đó đây cho bõ tám năm tù đày, chẳng muốn làm gì cho mệt trí. Mong mẫu thân nói giúp vài câu với phụ thân.
Từ nương buồn bã lắc đầu:
- Dẫu mẹ có thương con thì cũng đành bất lực vì tính nết cha ngươi vô cùng độc đoán. Tốt nhất là Hiên nhi cứ giả đò vui vẻ tham dự. Sang Xuân, ta sẽ mượn cớ về chơi quê ngoại, đưa Hiên nhi đi thăm thú những thắng cảnh Trung Nguyên.
Bà dừng lời, nhấp hớp trà thơm rồi nói tiếp:
- Còn một lý do bắt con phải làm vui lòng phụ thân, đó là tính mạng của Từ Phong và Từ Vũ. Hồi tháng chín, họ được cử đi ám sát một nhân vật ở An Dương nhưng đã không hoàn thành nhiệm vụ. Hai gã ấy chẳng nỡ ra tay vì đối tượng có đến bảy đứa con thơ nhao nhác. Dị An là người khắc nghiệt, tàn ác, lại đang chấp chưởng Hình Đường, tất sẽ không tha cho họ. Chỉ có Hiên nhi là đủ tư cách cứu họ khỏi án tử.
Bà nhìn chàng với vẻ khẩn cầu:
- Từ Phong, Từ Vũ tuy là nô bộc nhưng đã lớn lên với mẹ, tình nghĩa thâm sâu. Mong Hiên nhi hãy vì ta mà cứu họ.
Tử Khuê thấy hai gã sát thủ còn giữ được lòng nhân ái vô cùng cảm phục và thương mến. Chàng khẳng khái trấn an Từ nương:
- Mẫu thân yên tâm, hài nhi đoan chắc sẽ gỡ tội được cho hai người ấy.
Từ nương hài lòng, cùng Tử Khuê trò chuyện mãi đến gần sáng mới đuổi chàng về phòng.
Tử Khuê lấy cớ hỏi han nội tình rất cặn kẻ, hiểu được nhiều bí ẩn trọng đại. Thì ra, Tiêu Lập Dân là sư đệ, đồng thời là em rể Lôi Đình Cung Chủ Trác Ngạn Chi. Đôi lúc ông cũng muốn nghe lời Từ nương, giải tán Hoạch Đầu Hội, song bị trưởng nữ Dị An phản đối. Nàng ta có hậu thuẫn là cậu ruột, tức Lôi Đình Đế Quân, nên không sợ cha mình.
Càng hiểu rõ hoàn cảnh hiện tại, Tử Khuê càng thêm hoang mang, lo sợ, dù biết có trốn vế Quách gia trang cũng khó mà yên thân. Chẳng lẽ chàng cứ phải trốn tránh suốt đời, không dám lộ mặt?
Nỗi buồn phiền cùng cực đã biến thành sự bi phẫn, Tử Khuê nghiến răng thề rằng sẽ ở lại, tìm cách tiêu diệt xong cái tà hội ác độc này. Đây cũng là nghĩa vụ của võ sĩ đối với giang hồ và bách tính.
Chủ ý ấy đã khiến Tử Khuê bình tâm lại, thiếp đi lúc canh tư.
Quả nhiên trưa hôm sau, Tiêu Lạp Dân về đến phủ và ra lệnh triệu tập toàn bộ thủ hạ, trong tòa đại sảnh rộng thênh thang lúc đầu giờ Tuất, tối mai.
Ông đã trò chuyện với Mẫn Hiên, tức Tử Khuê về đại hội này. Chàng mỉm cười đáp ngây ngô:
- Phụ thân cứ yên tâm. Hài nhi đã được mẫu thân chỉ giáo qua. Được làm thiếu chủ thì sung sướng biết bao, tha hồ ra oai với thiên hạ.
Tiêu Lạp Dân thở dài ngán ngẩm, thương cho ái tử chưa hoàn toàn bình phục, ngây thơ cứ y như trẻ con vậy. Nhưng tin vào tài y thuật của mình, Lạp Dân không lo lắng lắm. Ông hỏi han, dặn dò con trai một lúc rồi mới dời gót.
Ông ta đi rồi, Tử Khuê ngồi nhìn qua song cửa hướng tây, ngắm cảnh tuyết rơi mà thương nhớ người thân nơi cố quận. Chàng hiểu rằng còn rất lâu mới được cùng họ đoàn viên.
Là kẻ thuần phác, ít mưu mẹo, Tử Khuê không tài nào tìm được cách thoát khỏi mớ bòng bong này, kể cả việc làm sao mà phá tan Hoạch Đầu Hội mà không khiến cho Lôi Đình Đế Quân nghi ngờ.
Sực nhớ đến gã anh vợ xảo quyệt, đa mưu túc trí là Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quan San, Tử Khuê tạm yên lòng. Sang Xuân,chàng sẽ tìm cách rời khỏi Hầu phủ, lẻn về Hứa Xương cùng gã bàn bạc kế sách.
Tiếng tằng hắng của Từ Vũ ở bên ngoài khiến Tử Khuê chạnh lòng. Sau cuộc đàm đạo vừa rồi với Tiêu trang chủ, chàng không còn tự tin nữa. Ông đã nghiêm nghị dặn dò chàng không được can thiệp vào việc trừng phạt hai gã họ Từ. Dường như Tiêu Lạp Dân đã đoán trước được rằng Từ nương sẽ nhờ chàng gỡ tội cho họ.
Phần vì lời hứa với người đàn bà bất hạnh kia, phần vì thương anh em họ Từ, Tử Khuê bóp trán tính toán, cố tìm ra phương sách. Phải chăng "đương cục giả mê, bàng quang giả tỉnh". Chuyện người thì sáng, chuyện mình thì tối? Cuối cùng Tử Khuê cũng có được kế lưỡng toàn, vừa cứu được họ, vừa loại trừ được kình địch.
Chàng mở cửa, khoác áo cừu ra ngoài rủ Từ Phong và Từ Vũ đi dạo bằng một câu ngớ ngẩn đến mức họ phải mỉm cười:
- Này nhị vị! Ta chợt nhớ đến lũ thằn lằn trong Từ Thạch ốc, muốn đi xem chúng có mạnh khỏe không?
Tuy đang chờ án tử hình mà thần thái hai gã này vẫn thản nhiên. Có thể do họ cam tâm chấp nhận, vì không còn đường nào khác, đào tẩu thì ba tháng sau cũng chết vì kỳ độc mãn tính. Tất cả thủ hạ Hoạch Đầu Hội đều bị khống chế bởi độc dược. Hoặc dã họ tin tưởng rằng nhị công tử sẽ vì mẫu thân mà cứu họ.
Hôm nay là ngày đẹp trời hiếm hoi trong cái mùa Đông chết dẫm này. Trời vẫn lạnh, nhưng gió thổi nhẹ và tuyết rơi lất phất.
Đang lúc giữa giờ Mùi, trừ những kẻ trong phiên đang canh gác, phần lớn người trong phủ đều ngủ cả. Cảnh vật khá tĩnh lặng, nhất là vườn Thủy Sam phía sau. Từ Thạch ốc tọa lạc ở giữa khu rừng này.
Đến nơi, Tử Khuê nghiêm nghị bảo hai cận vệ:
- Nhị vị cứ ở ngoài này, cứ để ta vào một mình được rồi. Có người lạ, bọn thằn lằn sẽ không dám gặp ta.
Hai gã nhìn nhau ngao ngán, gật đầu và cố nén nụ cười. Họ vào trong chỗ bẩn thỉu, hôi hám ấy làm gì cơ chứ?
Chẳng còn nhốt ai nên cửa Từ Thạch ốc không hề khóa, dù ổ khóa vẫn còn treo lủng lẵng nơi khoen. Bọn gia nhân cũng không hề có ý quét dọn cơ ngơi kỳ dị này. Nó sẽ được phá bỏ khi Tiêu trang chủ xác định rằng nhị công tử đã hoàn toàn bình phục.
Tử Khuê rất hài lòng khi thấy bên trong còn giữ được nguyên trạng. Chàng bước mau đến tảng từ thạch ở hướng Đông Nam, nơi mình tạt chén thuốc nước đã bị Dị An hạ độc.
Tử Khuê không sợ bẩn vì thứ nước thuốc sắc đặc sánh, bám chặt và làm loang lỗ mặt đá. Giờ đây, những chỗ ấy cũng phủ thêm một lớp bụi mỏng.
Trên sàn gạch có khá nhiều mảnh vụn của bát dĩa, muỗng đũa … những thứ ấy bị Mẫn Hiên hủy hoại. Chúng được làm bằng gỗ, khi gã hơi hồi tỉnh, không còn phá phách nữa mới được dùng đồ sứ.
Tử Khuê nhặt một mảnh bát có mép khá sắt, cạo lớp thuốc đã khô cứng trên mặt đá, tất nhiên có cả bụi bặm.Chàng hứng lấy thứ cặn bã ấy bằng một mảnh giấy đã mang theo sẵn trước khi rời phòng.
Được một nhúm nhỏ, vo chặt lại chừng hạt nhãn, Tử Khuê cho rằng đã đủ. Chàng sẽ hạ độc Dị An bằng đường hô hấp nên không thể dùng nhiều được. Số còn lại chàng để dành phòng khi hữu sự.
Tử Khuê đã hồi ức lại nội dung quyển "Huyền Hư Y Cảo" biết "Cuồng Tâm tán" lợi hại vô song, không hề để lại dấu vết và cũng không có thuốc giải. Chất độc này theo máu, công phá phần não bộ khiến nạn nhân phát cuồng, vô phương chữa trị. Tuyên truyền "Cuồng Tâm tán" là độc kỹ lừng danh của Thủy Thần Độc Vương Cao Mộng Đắc. Thần Thủy là một địa phương ở vùng cực Bắc tỉnh Thiểm Tây. Họ Cao chết đã bốn mươi năm, không người nối dỗi nên võ học thất truyền. Giờ đây cái thứ vũ khí độc địa ấy trong tay Tiêu Dị An, khiến một kẻ thiện dụng độc như Tiêu Lạp Dân cũng không ngờ đến.
Tử Khuê hiểu rằng độc tố đã phân tán đều trong chén thuốc, nên với một ít bụi phấn thế này thì khó mà làm cho Dị An phát điên. Song chàng hy vọng rằng ả sẽ tạm thời bị choáng váng, tâm thần hỗn loạn, không giữ được chủ ý sát hại anh em họ Từ. Để đảm bảo phần thắng, Tử Khuê dự đinh rằng sẽ ra tay nhiều lần, vì sẽ ngồi chung bàn tọa với Dị An.
Đầu giờ Tuất ngày hai mươi sáu tháng chạp, đại hội thường niên của Hoạch Đầu Hội được tiến hành, trong tòa đại sảnh phía sau quần thể Tứ hợp viện, cơ ngơi chính của Hầu phủ.
Tòa nhà này mới được xây dựng chừng hai mươi năm, khi nhân số của Hoạch Đầu Hội quá đông.