Từ sáng đến giờ đã có hàng trăm người lần lượt tìm đến Hầu phủ. Họ chính là thủ lĩnh của những phân hội địa phương, thường là chốn phồn vinh, sầm uất. Nơi hoang dã nghèo khó thì làm quái gì có ai đủ tiền mướn sát thủ. Thân chủ của Hoạch Đầu Hội không chỉ có giới võ lâm mà phần lớn là đám thương lái, đám nhà giàu và bọn quan lại. Chỗ nào có lợi lộc thì nơi ấy có tranh giành.
Những phát minh thành tựu trong lịch sử đã chứng tỏ dân tộc Trung Hoa cực kỳ thông tuệ, cần cù và đầy sáng tạo. Đồng thời họ cũng rất thâm hiểm nên mới nổi tiếng thế giới về binh pháp và thuật quyền mưu.
Người Trung Hoa đã áp dụng "Tam thập lục kế" vào cả lĩnh vực buôn bán, quan trường. Họ thích nhất là kế "Tá đao sát nhân", mượn tay kẻ khác để loại trử kẻ địch, thù nhân. Cho nên, nghề giết mướn rất ư phát đạt ngay từ thời Xuân Thu, Chiến Quốc.
Trong lịch sử Trung Hoa, Kinh Kha là một hình tượng của một tráng sĩ anh hùng, bất khuất. Nhưng xét cho cùng, Kinh Kha cũng là một kẻ đâm thuê chém mướn. Người đời sau vì chán ghét Tần Thủy Hoàng mà tôn sùng Kinh Kha. Nhưng nếu họ Kinh thành công thì Trung Hoa chẳng thể sớm thống nhất, và nền văn minh không phát triển một cách nhanh chóng, rực rỡ đến thế.
Tử Khuê phải cố nín cười khi thấy bên trên chiếc hương án đặt trước cạnh tường hướng bắc có bức họa tường rất lớn, vẽ một chàng tráng sĩ hiên ngang đang đứng cạnh một bờ sông.
Tử Khuê có thể đoán chắc đấy là Kinh Kha vì mé tả có bài thơ cổ bi tráng:
Phong phiêu phiêu hề
Dịch thủy hàn!
Tráng sĩ nhất khứ hề
Bất phục phản!
Thì ra Hoạch Đầu Hội đã tôn Kinh Kha làm tổ sư, phủ hào quang lên cái nghề giết thuê đầy tội lỗi của mình.
Chẳng hiểu hằng trăm tên giết mướn kia có thật lòng tin vào sự cao quý của nghề nghiệp mình đang làm hay không? Giờ đây họ đều hướng về hương án thờ Kinh Kha với vẻ thành kính rất mực. Trông họ chẳng khác gì những thiện nam, tín nữ đang chiêm bái tượng Phật trong chùa vậy.
Thích khách chứ chẳng phải đệ tử danh môn chính phái nên không có đồng phục. Họ cũng không ai đeo mặt nạ vì ai cũng mang trên vai vài ba cái án sát nhân, theo kiểu Danh Đầu Trạng của Lương Sơn Bạc. Hơn nữa, họ đều bị khống chế bằng độc dược mãn tính, có phản bội, cáo giáo đồng đảng thì cũng không thể sống sót.
Sau diễn từ khai mạc và nghi lễ thượng hương bái tổ, đại hội tiến hành việc tổng kết vụ sự. Một chiếc bàn dài và ba ghế dựa đã được mang ra đặt trước hương án. Khoảng nền vách bắc cao hơn phần diện tích còn lại độ gần sải tay, giúp cử tọa có thể nhìn rõ đoàn chủ tịch. Bọn môn nhân cũng được ngồi trên đôn gỗ vì hội nghị sẽ kéo dài hàng canh giờ.
Nhưng trước khi cho phép thủ hạ an tọa, Tiêu Lạp Dân đã tuyên cáo việc nhị công tử Tiêu Mẫn Hiên chính thức trở thành Thiếu Hội Chủ, sau này sẽ kế vị lão.
Dĩ nhiên, ai nấy đều vỗ tay tán thành bởi "con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa". Nhưng trong lòng họ đầy ắp e ngại vì biết chàng trai mặt mày ngơ ngáo kia đã từng điên loạn suốt mấy năm qua.
Được Tiêu Lạp Dân dặn dò từ trước, Tử Khuê bước ra vái chào cử tọa và chỉ cười tươi chứ không phát biểu. Lạp Dân sợ Mẫn Hiên nói quàng nói xiên thì mất mặt họ Tiêu.
Tử Khuê mang bản chất hiền lành đôn hậu nên nụ cười rất dễ mến, khiến bọn sát thủ lão luyện kia nhận ra tính nết và lập tức có tình cảm. Sau này, chàng làm Hội chủ thì bọn thuộc hạ sẽ dễ sống hơn cô ả La Sát Tiêu Dị An kia.
Đại tiểu thư nhà họ Tiêu không hề xấu xí, đôi mắt lá răm và bờ môi anh đào chín mọng kia còn có vẻ đa tình nữa. Thân hình nàng cũng thon thả, khiêu gợi chứ không gầy đét. Thế mà chẳng hiểu sao một ả rất mực đàn bà như thế lại khắc nghiệt, tàn nhẫn phi thường?
Thấy ái tử được nhìn với ánh mắt tán thưởng, Tiêu Lạp Dân, tức Hội chủ Hoạch Đầu Hội, cao hứng mời toàn trường an tọa. Phần ông dẫn con gái, con trai mình đến ngồi ở bàn chủ tịch.
Lòng Tử Khuê vô cùng hồi hộp, quyết định ra tay sớm vì lát nữa sẽ không còn cơ hội. Chàng và Dị An sẽ ngồi hai ghế tả hữu, chính giữa là Tiêu Lạp Dân.
Cho nên, khi Tiêu Hội chủ vừa an vị và Dị An đang lay hoay kéo ghế, Tử Khuê búng ngay một nhúm bột đất chứa "Cuồng Tâm tán" vào mũi ả chị hờ.
Tử Khuê đã dùng muỗng sứ nghiền nát số bột đất kia trở nên nhuyễn nhỏ như bụi bặm, mắt thường khó mà phát hiện.
Đã quen với phép điểm huyệt bằng tia cương khí nên thủ pháp của chàng cực kỳ chuẩn xác. Chàng lại dựa vào nhịp phập phồng của bộ ngực nở nang kia mà chọn đúng lúc Dị An hít vào. Nàng ta khoác áo lông cừu ngắn song không khép vạt.
Dị An lãnh trọn số bụi tai hại ấy và lập tức hắt hơi lia lịa, khiến Tử Khuê lo ngay ngáy sợ bụi thuốc văng ra hết. Chàng thầm van vái cả Phật Tổ lẫn Tam Thanh cho mình đừng thất bại, nguy hại đến tính mạng của anh em họ Từ. Trong quá khứ, Tử Khuê đã gặp quá nhiều xui xẻo nên không còn tự tin khi làm bất cứ việc gì. Dẫu biết rằng chất độc đi vào đường hô hấp sẽ tác dụng nhanh và mạnh hơn đi vào dạ dày, song Tử Khuê lại không nắm vững được lượng độc tố cần thiết.
Trà nóng đã được mang ra nhưng chén nào cũng có nắp đậy. Khi uống, người ta sẽ dùng cạnh nắp để chặn xác trà. Nhấp xong một hai hớp thì đậy nắp cho nóng. Do vậy, Tử Khuê không hy vọng hạ thủ thêm lần nữa vào chén trà. Vả lại, việc dùng chân khí búng mạnh thuốc qua mặt một đại cao thủ như Tiêu Lạp Dân là một hành động dại dột.
Tuy luôn rén rình rập sắc diện, thần thái của Dị An, Tử Khuê vẫn theo dõi được diễn tiến của hội nghị. Lúc này, phân hội chủ các địa phương đang trình bày với Tiêu Lạp Dân về những khó khăn, những hợp đồng chưa hoàn thành của khu vực mình đang phụ trách.
Chàng sợ đến toát mồ hôi khi một lão già gầy, đầu hói, đứng lên phát biểu:
- Thưa Hội chủ! Phân hội Hứa Xương vừa phát hiện Đông Nhạc Tiên Hồ Tái Dịch Vân trong nhà một lão đại phú họ Quách. Thuộc hạ đã thử đột nhập vào dọ thám thì phát hiện việc canh phòng của Quách gia trang cực kỳ nghiêm mật. Và dường như bãn lãnh của bọn gia đinh rất cao cường, không thua gì những sát thủ kiêu dũng của bổn hội. Thuộc hạ cho rằng phân hội Hứa Xương không đủ sức bắt cóc ả họ Dịch, xin Hội chủ cử thêm người đến hỗ trợ.
Tiêu Lạp Dân trầm ngâm vuốt chòm râu dài và đẹp một lúc rồi mới nói:
- Lão phu rất tin tưởng vào nhãn quan sắc bén của Hồ các hạ nên lòng rất nghi hoặc. Thường thì các nhà đại phú không thể có được lực lượng gia nhân lợi hại đến mức ấy. Phải chăng Quách trang chủ là một cao thủ đã phong kiếm quy ẩn? Nếu không thì Quách gia đâu có quan hệ với một nhân vật danh tiếng giang hồ như Dịch Tái Vân? À! Thế Đông Nhạc Tiên Hồ đến ở Quách gia trang với tư cách gì?
Lão phân hội chủ họ Hồ tên Kiệt kia lộ vẻ đắc ý:
- Bẩm Hội chủ! Tám ngày trước, thuộc hạ giả làm người cơ nhỡ đến Quách gia trang. Tuy bị chặn tại nội cổng để nhận bố thí, song thuộc hạ đã may mắn nhìn thấy Đông Nhạc Tiên Hồ cùng một nữ nhân nữa, hai nàng ấy đang thơ thẩn trước phía trước cửa thùy hoa. Và nếu thuộc hạ không nghe lầm thì bọn tỳ nữ gọi Dịch Tái Vân là Nhị Thiếu, còn nàng thứ hai là Đại Thiếu. Xem ra, gã Quách công tử chết tiệt nào đó quả tốt phúc. Vợ lớn của gã cũng đẹp tuyệt trần, chỉ kém Dịch Tái Vân chút đỉnh.
Nghe xong, Tiêu Hội chủ tư lự bảo:
- Xem ra lai lịch Quách gia trang có điều bí ẩn, chúng ta không thể hành động hồ đồ được. Lão phu sẽ cho người đến Thần Đao Bảo thương lượng lại, đòi giá gấp đôi, tức sáu ngàn lượng hoàng kim. Trong lúc này, Hồ các hạ cứ huy động anh em giám sát Quách gia trang và điều nghiên kỹ địa hình. Nếu Tần Minh Viên chấp nhận giá mới, lão phu sẽ đưa quân xuống Hứa Xương và sử dụng "Tam nhật mê hồn câu" mà tấn công Quách gia trang.
Tử Khuê chết điếng cõi lòng, thập phần lo lắng cho ái thê và người thân. Chàng bỗng có cảm giác chán ghét cả Tiêu Lạp Dân. Qua ánh mắt và chất giọng của lão khi bày mưu tính kế. Tử Khuê không tin rằng Lạp Dân có ý hướng thiện như lời Từ nương đã kể. Nghĩa là cho dù Tiêu Dị An không ngăn cản thì lão ta cũng không bao giờ chịu từ bỏ quyền lực và những món lợi khổng lồ của nghề giết mướn.
Dẫu sau này có kẻ thủ hạ không sợ chết, đứng ra cáo giác cũng chẳng đáng lo. Hầu Phủ có Minh Thư Thiết Khoán của minh Thái Tổ, bộ đầu công khai, các cấp không được vào tra xét, trừ phi xin được Thánh chỉ. Tiêu Lạp Dân có thừa thời gian để phi tang hoặc tạm lánh mặt. Chỉ vài tháng sau là kẻ phản bội sẽ chết rất êm ái, không còn nhân chứng nữa. Lão đã sử dụng hai loại độc khác nhau. Loại dành cho các phân hội chủ có kỳ hạn nửa năm. Loại dành cho sát thủ, do thám cấp thấp thì chỉ tròn ba tháng.
Những thông tin ấy do Từ nương tiết lộ với Tử Khuê. Chính bà là người đang cất giữ hàng ngàn viên giải dược cũng như toa điều chế. Tuy gian hùng cái thế, song Tiêu Lạp Dân lại tinh tưởng tuyệt đối vào người vợ trẻ đẹp, hiền lành.
Tử Khuê hiểu rằng phải ngăn chặn ngay bàn tay tội lỗi của Tiêu Lạp Dân, không phải chỉ vì an nguy của Quách gia trang mà còn nhiều nạn nhân khác nữa.
Nhưng dẫu sao Tiêu Lạp Dân cũng có ân đối với chàng. Nếu không nhờ ba chục chén thuốc quý có "Thiên niên Hà thủ ô" thì những đoạn kinh mạch bị bế tắc, bị đông cứng trong cơ thể chàng sẽ không bao giờ được khai giải. Mất võ công đối với người võ sĩ còn đau khổ hơn là cái chết. Hơn nữa, ám hại một người mà hơn gần tháng nay chàng gọi là phụ thân thì đáng xấu hổ làm sao!
Nhưng nghĩ câu "đại nghĩa diệt thân", vì họ Tiêu không thể chết vì lượng độc ít ỏi. Tử Khuê quyết định hành động.
Chàng đã vo tròn, nén chặt độc phấn thành những viên nhỏ cỡ hạt đậu xanh. Khi sử dụng, Tử Khuê vận công nghiền nát rồi búng đi. Chàng ngồi sát mé tả Tiêu Lạp Dân nên có thể hạ thủ rất dễ dàng, bằng một lực đạo tương đối nhỏ, không hề làm xao động không gian.
Tiêu Lạp Dân đang chăm chú nhìn xuống dưới, lắng nghe phân hội Phúc Kiến báo cáo. Lão chẳng thể phát hiện những động tác nhanh như chớp của bàn tay phải Tử Khuê đang đặt ngửa trên đùi.
Cũng như Tiêu Dị An, Tiêu Lạp Dân cũng hít phải phần lớn bụi phấn, ngứa mũi hắt hơi vài cái, song không hề nghi ngờ gì cả. Dẫu là người luyện võ, khi trời Đông giá lạnh, thì thỉnh thoảng vẫn bị cảm mạo, việc ấy rất bình thường.
Tử Khuê lại tiếp tục ở trong tâm trạng hồi hộp, chờ đợi kết quả. Nãy giờ, Tiêu Dị An vẫn chẳng có biểu hiện gì khác thường khiến Tử Khuê lo lắng vì bụi thuốc chứa quá ít "Cuồng Tâm tán" nên vô tác dụng.
Nhưng lát sau, khi đến mục luận tội, kết án những thuộc hạ mắc lỗi, Tử Khuê đã nhận ra giọng nói của Dị An hơi run, không đanh thép như thường ngày và nhịp thở chẳng đều. Chàng mừng rỡ quan sát thật kỹ và thấy mặt ả đỏ bừng, sống mũi lấm tấm mồ hôi.
Tổng cộng có đến hai mươi sáu môn nhân Hoạch Đầu Hội phạm phải lỗi lầm. Hai gã Từ Phong, Từ Vũ đứng đầu danh sách vì tội kháng lệnh. Số còn lại mang tội danh hèn nhát, bất lực và không hoàn thành nhiệm vụ.
Dị An đọc đến tên ai thì người ấy đứng lên, gương mặt lo âu, ủ rũ. Họ thừa biết mình nhận sự trừng phạt hà khắc đến mức nào. Nhẹ nhất cũng bị đòn trăm hèo, nằm liệt giường hai tháng.
Lúc đọc được gần nửa danh sách đen kia thì Dị An đã dừng lại, cởi áo lông cừu. Hành động này khá bất thường vì thời tiết rất lạnh, dù cửa nẻo đóng kín và trong sảnh có hơn chục lò sửi ấm bằng đồng và hàng tá đèn đuốc.
Đọc xong thay vì luận tội ngay thì ả lại ôm quyền cáo lỗi với cử tọa rồi lui vào nhà sau, cứ như bàng quang sắp vỡ đến nơi vậy.
Lạ thay, Tiêu Hội chủ cũng bắt đầu xuất hạn, đứng lên cởi bỏ áo lông cừu, trao cho ả tỳ nữ hầu trà. Sau đó, Lạp Dân ngồi xuống nghiên cứu bản danh sách bọn thủ hạ phạm quy, cân nhắc hình phạt cho từng người để lát nữa góp ý cùng trưởng nữ.
Hai mươi sáu gã bất hạnh ấy đứng trơ như phỗng, cao hơn những kẻ còn lại đang ngồi trên ghế nên phát hiện quái sự đầu tiên. Chúng không nén nổi sự kinh ngạc tột cùng, đồng thanh "ồ" lên. Kế đó, toàn trường xôn xao như vỡ chợ.
Thì ra, đại tiểu thư Dị An đã ra đến, đầu tóc ướt đẫm và toàn thân không mảnh vải. Thế mà nàng ta còn tươi cười, vòng tay phân bua:
- Xin chư vị lượng thứ cho. Bổn nhân nghe người nóng nực vào tắm cho mát.
Diễn biến tiếp theo còn khủng khiếp hơn nữa, Tiêu Lạp Dân quay sang nhìn ái nữ, thay vì hốt hoảng thì lại xô ghế, bước đến ôm chầm lấy. Lão mê muội hôn hít, vuốt ve tấm thân nõn nà của Dị An với những động tác khát khao và dâm đãng. Khổ thay, Tiêu Dị An không hề phản kháng mà còn cười khanh khách đầy thích thú.
Cảnh tượng loạn luân quái dị kia đã khiến toàn trường hoàn toàn chết lặng. Tử Khuê cũng bối rối đến mức chẳng biết phải làm sao. Chàng đâu ngờ thứ bột thuốc kia lại có tác dụng quái gở, khó coi đến thế?
Khi Tiêu Lạp Dân thoát y, người ta mới hiểu rõ lão điên loạn đến mức định giao phối với Dị An ngay tại chốn này. Ai đó thảng thốt thét lên:
- Họ đã phát cuồng rồi!
Và từ hàng ghế đầu tiên gần nạn nhân nhất, có hai người nhảy xổ đến, khống chế huyệt đạo của hai cha con Tiêu Hội chủ. Họ chính là Đường chủ nội đường, tức lão tổng quản Du Vinh và Đường chủ ngoại đường Tuân Khánh. Cương vị của hai người ấy trong hội chỉ kém ba cha con nhà họ Tiêu.
Từ lâu, Tử Khuê đã biết hai lão này có võ công rất cao siêu, được Tiêu Lạp Dân xem trọng. Và hôm kia, chàng lại được Từ nương tiết lộ rằng họ là người của Lôi Đình Thần Cung, đến hỗ trợ cho Lạp Dân đã nhiều năm nay.
Sau khi lệnh cho bọn tỳ nữ khiêng hai kẻ đã phát cuồng vào trong hậu viện. Du tổng quản nghiêm nghị bảo cử tọa:
- Sự nghiệp của bổn hội liên quan đến rất nhiều người, không thể vì chút bệnh tình của cha con Tiêu Hội chủ mà phế bỏ. Thời gian điều trị chắc sẽ khá lâu nên lão phu đề nghị đại hội tạm trao quyền Hội chủ cho Thiếu Hội chủ Tiêu Mẫn Hiên.
Cơ nghiệp này vốn là của dòng họ Tiêu, toàn thể môn hạ trong đại hội đều tán thành.
Tử Khuê nào muốn vướng vào vũng bùn nhơ nhớp, bèn giẫy nẫy như đĩa phải vôi, ấp úng nói:
- Kính cáo chư vị. Tại hạ trẻ người non dạ, lại vừa thoát cảnh mê cuồng chẳng bao lâu, sao có thể đảm đương vụ sự của bổn hội. Hay là Du lão cứ tạm nắm quyền hội chủ một thời gian, chờ gia phụ bình phục?
Nghe chàng nói thế cử tọa phía dưới lập tức im lặng một cách khó hiểu. Họ chờ đợi câu trả lời của Du Vinh với ánh mắt đầy nghi hoặc.
Họ Du có gương mặt tròn trịa, hồng hào trông khá phúc hậu. Nhưng tục ngữ có câu "họa hổ họa bì nan họa cốt" nên mọi người vẫn có quyền nghi ngờ Du tổng quản thừa nước đục thả câu,nắm lấy ngôi vị Hội chủ. Việc cả hai cha con họ Tiêu phát cuồng cùng một lúc chẳng phải đáng ngờ lắm sao?
Du Vinh bối rối, thở dài bảo Tử Khuê:
- Lão phu mà chấp chưởng thì lòng người không phục mà còn bị đàm tiếu nữa. Nhị công tử cứ yên tâm đảm nhận một thời gian, lão phu và Tuân lão ca sẽ hết lòng phò tá, hướng dẫn cho.
Đường chủ ngoại đường Tuân Khánh đang xem xét những chén trà uống dở dang trên mặt bàn. Nghe họ Du nói vậy, lão bước lại và lên tiếng trình bày:
- Này anh em. Dẫu cho nhà họ Tiêu có tiền sử bệnh điên thì cũng khó xảy ra việc Hội chủ và Dị An đột nhiên loạn trí cùng một lượt. Lão phu ngờ rằng họ đã bị hạ độc bởi một thứ xuân dược cực kỳ mãnh liệt. Nhưng khi kiểm tra những chén trà, lão phu không hề phát hiện quái sự. Hơn nữa, thiếu chủ cũng cùng uống những thứ trà ấy mà không sao. Tuy nhiên, ba tách trà vẫn được giữ lại để nhờ bậc cao minh xem xét thêm. Vài ngày nữa, nếu bệnh tình Hội chủ và Dị An không thuyên giảm, lão phu sẽ đưa họ về Lôi Đình Thần Cung chữa trị. Còn việc điều hành bổn hội thì lão phu khẳng định rằng chỉ mình nhị công tử Tiêu Mẫn Hiên đủ tư cách. Xin chư vị chớ nên phân tâm, nghi hoặc mà ảnh hưởng đến hoạt động của bổn hội.
Tuân Khánh có dung mạo đoan chính, trang nghiêm, tính tình trầm tĩnh, ôn hòa, xử sự thì cương quyết và chu đáo. Trước giờ, họ Tuân vẫn được anh em trong hội kính trọng, nể sợ. Nay nghe Tuân Khánh phân tích sự vật một cách khách quan, rạch ròi như thế, mọi hoài nghi tan biến cả. Và có kẻ thẳng thắn nêu ý kiến, đó là chủ phân hội Thiểm Tây:
- Bẩm Tuân Đường chủ! Thuộc hạ cứ thắc mắc mãi, không hiểu Hội chủ và tiểu thư bị hạ độc bằng cách nào. Trà không có độc và cơm tối thì dùng chung với chúng ta. Hơn nữa, chẳng ai có động cơ để ám hại họ cả.
Tuân Khánh đưa tay gãi sống mũi rồi nói tiếp:
- Lão phu cũng đã suy nghĩ như Hà lão đệ. Quả đúng là không có ai có động cơ và điều kiện để hạ độc. Lúc này, lão phu chưa thể khẳng định nguyên nhân, phải chờ xem diễn tiến bệnh tình của nạn nhân như thế nào.
Và lão vòng tay nói với Tử Khuê:
- Nay công tử là quyền Hội chủ, xin hãy tiếp tục chủ trì đại hội. Lão phu xin phép được ra ngoài chăm sóc Hội chủ và tiểu thư.
Nãy giờ Tử Khuê ở trong tâm trạng hồi hộp lo âu, hối tiếc vì đã hạ thủ cả Tiêu Hội chủ, gây ra sự nghi ngờ to lớn. Chàng thầm trách mình là kẻ ấu trĩ, không nhìn xa trông rộng. Một mình Dị An phát cuồng thì còn được. Nay cả hai cha con đều nhất loạt loạn tâm, bảo sao Tuân Khánh không ngờ vực?
Chất độc "Cuồng Tâm tán" trong máu hai nạn nhân có thể bị Lôi Đình Đế Quân phát hiện ra và lão sẽ nghĩ đến chàng.
Nhưng cảm giác sợ hãi đôi lúc lại khiến người ta hổ thẹn và phẫn nộ, nhất là đối với một chàng trai mang bản chất anh hùng hiệp sĩ như Tử Khuê. Chàng liền nghĩ rằng lão Trác Ngạn Chi chết giẫm kia có gì đáng sợ, khi chàng đã tỏ tường võ công của lão.
Chủ ý ấy đã nâng đỡ tinh thần của Tử Khuê. Chàng bình tâm dấn thân chơi tiếp canh bạc dở dang. Tuấn Khanh đi rồi, Tử Khuê liền ngồi vào ghế Hội chủ và vui vẻ mời tổng quản Du Vinh cùng mình điều khiển đại hội. Họ Du khoan khoái nhận lời, nhắc nhở tân Hội chủ xử lý cho xong việc hai mươi sáu gã môn nhân phạm lỗi.
Tử Khuê cầm bảng danh sách, đọc qua loa rồi đứng lên, điềm đạm tuyên bố:
- Bổn nhân trộm nghĩ rằng khi chúng ta tôn thờ Kinh Kha làm tổ sư thì cũng nên hành sự cho giống họ Kinh. Một bậc anh hùng cái thế như Kinh tổ sư chắc cũng không nỡ giết một người cha để bảy đứa con thơ phải mồ côi, không nơi nương tựa. Vậy thì xét cho cùng, Từ Phong và Từ Vũ đã hành động đúng. Còn hai mươi bốn vị kia cũng không có lỗi khi thất bại. Năm xưa, Kinh Kha cũng đâu có giết được Tần Thủy Hoàng. Tóm lại, bổn nhân quyết định tha bổng tất cả.
Không phải chỉ riêng hai mươi sáu gã sát thủ phạm lỗi, hầu như tất cả mọi người hiện diện đều vỗ tay hoan hô cách ứng xử nhân từ của tân Hội chủ. Bao năm qua, Tiêu Lạp Dân đã ỷ vào thuốc độc mà bắt bọn môn nhân phải chịu đựng những quy củ cực kỳ khắt khe, tàn nhẫn.
Con sâu cái kiến còn ham sống nên khi gặp mục tiêu quá khó khăn, người ta phải tháo lui để bảo toàn tính mạng. Hành vi ấy hoàn toàn hợp lý, song Lạp Dân không chấp nhận, khép tội họ và xử phạt rất nặng.