Bạch Hổ Tinh Quân

Chương 62: Chương 62


trước sau

Sườn núi cao đến hàng chục trượng, tuy không dưng đứng song cũng rất khó leo trèo. Hơn nữa, năm trăm lính cung nỏ rải đầy trên đỉnh của ngọn núi thấp này và chúng báo cáo rằng không thấy ai thoát ra.

Quần hùng đã nỗ lực lục soát khắp nơi mà chỉ thấy hai ngôi mộ, bia ghi tên Quảng Chiêu Phong và Phùng Bá Hải.

Lôi Đình Đế Quân thì cho rằng Diêm Vương Lệnh chủ đi vắng, đề nghị rút quân.

Nhưng Tử Khuê biết chắc lão có mặt nên không chịu. Chàng nghiêm nghị bảo : "Diêm Vương Lệnh chủ chính thực là Phùng Bá Toàn, di cô của Nguyệt Hoa môn chủ Phùng Bá Ngọc. Hắn ta mà thoát được trận này thì từ nay võ lâm chẳng còn một khắc bình yên. Hắn là người xảo quyệt nên đã nhẫn nại ẩn nấp, chờ trời tối mới phá vây. Lúc ấy, ‘Diêm Vương Quỷ kỳ’ có tác dụng mãnh liệt nhất".

Các chưởng môn nhân đều tán thành lập luận của chàng. Bỗng Dịch Quan San thảng thốt nói: "Chết thực! Hay là lão ta trà trộn trong đám tù nhân?"

Tử Khuê bừng tỉnh ngộ, điều động quân cung nỏ đến khu vực đang khai thác đá. Quần hùng cũng lập phòng tuyến ở phía sau quân binh. Bố trí xong, chàng dõng dạc tuyên bố: "Các anh em phạm nhân hãy đứng dậy, lột nón, cởi áo, đưa hai tay lên khỏi đầu và tiến ra ngoài này. Ta chỉ cần tìm Diêm Vương Lệnh chủ nên sẽ không làm hại đến các người".

Bọn tù khổ sai ngoan ngoãn làm theo lời chàng, mau chóng bước ra khỏi bãi đã ngổn ngang, đứng tụ tập ở khu vực đã được Tử Khuê chỉ định.

Tù nhân thứ thiệt thì gầy ốm, da dẻ rám đen, sần sùi, dơ bẩn, tóc cũng đỏ quạch vì cháy nắng. Và khi cởi trần thì chẳng ai có thể giấu Quỷ ký hay vũ khí. Nghĩa là nếu Diêm Vương Lệnh chủ có mặt trong đám tù nhân sẽ bị phát hiện.

Lão cũng biết vậy nên nấp lại một lúc và bất ngờ lao vút ra, tay hữu lăm lăm báu kiếm, tay ta vũ lộng Quỷ kỳ, tư thế bộ dạng ấy rất dễ nhận ra từ khoàng cách tám chín trượng. Quân cung nỏ lập tức buông tên, bắn như mưa. Nhưng Bá Toàn kiếm pháp tuyệt luân, che thân rất hữu hiệu.

Tử Khuê liền ra lệnh ngưng xạ tiễn rồi lướt đến chặn đường Diêm Vương Lệnh chủ. Bên ngoài, quần hùng cũng tràn lên, thế chỗ cho bọn lính tầm thường.

Phùng Bá Toàn thấy đối phương không biết sống chết, dám đối phó với cờ ma, thì đắc ý phất mạnh Quỷ kỳ, miệng thì lầm rầm niệm chú. Lúc này, vầng dương đã tắt lịm dưới trời tây nên uy lực của Quỷ kỳ khá mạnh, tạo ra luồng quái phong xa tới hơn hai trượng song vẫn chưa có hồn ma bóng quế đi kèm.

Tử Khuê thản nhiên bay xuyên qua luồng gió quái dị đầy bụi bặm, dồn toàn lực xuất chiêu "Nguyệt phù thiên lý".

Diêm Vương Lệnh chủ cho rằng sức lực kẻ địch đã tổn thất gần hết, ngay khi chạm phải quỷ phong nên thẳng thắn cử gươm chống đỡ. Nào ngờ, khi thép chạm thép, Bá Toàn mới biết gã rậm râu kia đạo hạnh thâm sâu còn hơn cả Trung Thiên Tôn. Chân khí của đối phương vẫn rất dồi dào và kiếm pháp thì lợi hại phi thường.

May mà Bá Toàn dày công khổ luyện và đánh một chiêu kiếm rất ảo diệu. Lão hóa giải được gần hết những thế gươm của đối thủ, và chỉ trúng một đòn vào ngực. Song lão đã có bảo y hộ thể nên chỉ đau đớn chứ chẳng thọ thương. Bào đệ của lão ví ỷ tài, không mặc giáp nên đã bị Trung Thiên Tôn đâm thùng gan mới chết cách nay vài ngày.

Bá Toàn mượn lực đẩy của nhát kiếm ấy mà nhảy ngược về phía sau, hạ thân trên một tảng đá lớn. Từ vị trí này, lão bốc lên cao, trước tiên là bủa luồng quỷ phong, sau đó sa xuống múa gươm tập kích thượng bàn kẻ địch. Lão không tin rằng gã râu rậm kia lại có thể đứng vững trước đòn thứ hai của Quỷ kỳ. Bá Toàn thầm đoán đối thủ là Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê, con nuôi của Trung Thiên Tôn.

Lão đã đoán đúng lai lịch nhưng không biết rằng Tử Khuê là khắc tinh của Quỷ kỳ. Chàng họ Quách lao vút lên, xuất chiêu "Lậu nguyệt tái vân" (Chạm trăng cắt mây). Hàng trăm thức kiếm nhanh tựa mưa rào đã chặn đứng chiêu gươm ác liệt và khéo léo đâm thủng đùi trái của kẻ thù, ngay huyệt Phục Thố. Mũi kiếm "Đảo Nguyên" rất sắc bén đã đâm thủng cả xương đùi nạn nhân. Song phương rời nhau, rơi xuống đất, cách xa độ hơn trượng.

Ánh mắt của Diêm Vương Lệnh chủ lấp lánh niềm oán hận và sợ hãi. Vết thương ở đùi tuôn máu như suối và đau đớn đến tê dại. Lão biết mình khó thoát thân.

Nhưng Tử Khuê chưa kịp xông lên thì đã có kẻ tranh công. Lôi Đình Cung chủ thấy chàng trai họ Quách an toàn trước Quỷ kỳ thì sinh lòng tin tưởng vào lá bùa linh bảo "Hộ mệnh thần phù". Chàng ta và lão đều đeo một lá giống nhau.

Thế là Trác Ngạn Chi quyết định giành lấy công đầu hạ sát Diêm Vương Lệnh chủ. Lão bất ngờ lao vút tới như tên bắn, đánh vào mé hữu mục tiêu. Lão hành động êm thắm và thần tốc nên Tử Khuê không kịp ngăn cản.

Và tất nhiên Bá Toàn phất Quỷ kỳ, đưa luồng quái phong chặn trước họ Trác. Ở khoảng cách hơn hai trượng thì "Lôi Đình thần chưởng" không có tác dụng, nên Ngạn Chi phải tiếp tục phi thân xuyên qua luồng gió quỷ.

Khổ thay, lá bùa của Trương Sách chỉ là phương tiện để làm rạng danh Thiên Sư giáo, và bản thân Tử Khuê không cần đến. Trác Ngạn Chi đã phải chịu quả báo cho những hành vi ác độc của mình. Khi vừa chạm phải luồng quỷ phong thì Lôi Đình Cung chủ đã hồn xiêu phách lạc, mê man tựa kẻ rơi xuống chốn u minh. Tất nhiên lão chẳng hề phản ứng trước đường gươm của Bá Toàn. Tim phổi đều bị đâm thấu, Trác Ngạn Chi gục ngã chết ngay.

Tử Khuê không kịp cứu mạng lão cha vợ bởi dẫu đã tận lực tấn công Bá Toàn bằng chiêu "Phiên thiên phục địa". Do chàng đánh vào mé tả nên trước tiên Bá Toàn phải sử dụng Quỷ kỳ để chống đõ, sau đó mới kịp dùng kiếm. Dường như lão ta thuận cả hai tay, và đã rèn luyện phép phối hợp gươm với cờ, nên những thế thức của lão rất lợi hại. Lá cờ bằng gấm bị "Đảo Nguyên thần kiếm" chém rách bươm, rơi ra khỏi cán khiến Quỷ kỳ mất đi ma lực. Nhưng Phùng Bá Toàn đã chặn đứng được chiêu công của Tử Khuê, và tiếp tục thi triển đấu pháp kiếm kỳ hợp bích mà phản kích lại. Cán Quỷ kỳ rất cứng rắn, thừa sức chịu đựng những đòn chém mãnh liệt của thần kiếm. Bá Toàn cũng biết việc Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim, chính thất của Tử Khuê lời được thanh "Đảo Nguyên thần kiếm" khi đánh bạc với Đổ Hầu. Canh bạc khổng lồ này đã được giới võ lâm truyền tụng khắp nơi.

Bá Toàn không dám thi thố "Đốn Bội tâm pháp" một cách hấp tấp, vì công phu ấy rất hao tổn chân nguyên, trong khi thân pháp của đối phương quá nhanh nhẹn. Tử Khuê mà tránh được và phản công lại thì lão nguy ngay. Cho nên Bá Toàn cố ẩn nhẫn chờ cơ hội chắc ăn mười mươi mới hạ độc thủ.

Vả lại, lão sở hữu đến gần hoa giáp công lực, khổ luyện pho "Trường bạch ma kiếm" đã ba mươi năm, lẽ nào lại thua một gã hậu sinh. Trong hai lần chạm kiếm trước, do ỷ lại vào tà lực của Quỷ kỳ nên lão có phần sơ xuất, phải lép vế. Nhưng giờ thì đã khác, Bá Toàn bình tâm mang hết sở học ra sử dụng.

Do chân trái thọ thương không tiện di chuyển nhiều, Diêm Vương Lệnh chủ chọn đấu pháp dĩ tĩnh chế động. Trường kiếm trong tay lão lượn nhanh như tựa gió, lực đạo mạnh mẽ đến mức kiếm phong rít lên xoèn xoẹt như xé lụa, và thế thức thì cực kỳ quỷ dị, nham hiểm. Thỉnh thoảng mũi nhọn của cán Quỷ kỳ lại bất ngờ thọc vào một yếu huyệt nào đó của đối phương.

Tử Khuê cũng có những lợi thế của riêng mình, đó là bộ pháp "Tiên nữ tùy phong" và chiếc bao tay Kim Miệt ở tả thủ. Chàng hoán vị nhanh như chớp, tránh được những đường gươm ác liệt đầy bất trắc. Còn bàn tay trái của chàng thì có thể ngang nhiên chụp lấy lưỡi kiếm hoặc mũi Quỷ kỳ. Cho đến lúc này, Tử Khuê vẫn chưa để lộ tác dụng của Kim Miệt.

Nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn chính là bản lĩnh kiếm thuật của Tử Khuê. Trong nghề đánh gươm, chàng không biết rõ ai và càng hào hứng khi gặp địch thủ cao cường. Tử Khuê phấn khởi mà giải những chiêu kiếm kỳ bí, lợi hại của đất Liêu Đông với niềm say mê vô hạn. Tuy Bá Toàn đang thọ thương, ở vào vị trí bị động, song lại có bảo y hộ thể, cho nên Tử Khuê chịu thiệt thòi khi chỉ có thể tấn công vào mặt,cổ và tứ chi kẻ địch. May mà chàng đã có kinh nghiệm trong dịp đấu với Hắc Diện Thần Ưng, chẳng đển nỗi bối rối. Đồng thời, đấu pháp "Vô chiêu" ngày càng hoàn thiện, tiến dần đến cảnh giới thượng thừa.

Tiếng thép chạm nhau không ngớt, khô khốc ghê tai, song cũng xen lẫn tiếng ngân nga khi "Đảo Nguyên thần kiếm" chém trúng cán Quỷ kỳ là ống rỗng. Cổ vật ấy không bị chặt gãy nhưng trầy trụa, sứt mẻ, mất đi khá nhiều chữ khắc trên thân.

Phùng Bá Toàn tiếc muốn đứt ruột, hiểu rằng "Diêm Vương Quỷ kỳ" đã không còn ma lực khi câu thần chú trên cán cờ bị hủy hoại. Dĩ nhiên là lão vô cùng oán hận Tử Khuê. Song sau đó, Bá Toàn cũng thức ngộ ra rằng "Đảo Nguyên" sắc bén tuyệt luân, trước sau gì cũng chặt gãy kiếm của mình. Hiện giờ lưỡi kiếm đã mẻ hàng trăm chỗ.

Bá Toàn chẳng thể chờ tới lúc kiếm đoạn nhân vong, lập tức thi triển "Đốn Bội tâm pháp" nhân đôi công lực mà xuất chiêu "Hàn phong thấu cốt". Chiêu này hầu như chỉ toàn những thức đâm, vì chém mạnh vào thần kiếm là tự hại mình.

Tuy màn đêm đã buông xuống nhưng đấu trường khá sáng sủa nhờ ánh sáng của mấy trăm ngọn đuốc. Cả quần hùng lẫn quan quân đều muốn thưởng thức trọn vẹn cuộc so gươm hiếm có này. Chính những ánh đuốc vàng võ ấy đã giúp Tử Khuê nhận ra sự biến đổi trên gương mặt đối phương. Chàng đã biết sự lợi hại của tà công "Đốn Bội tâm pháp" nên luôn luôn cảnh giác. Tử Khuê lập tức đảo bộ thần tốc, rời xa đối thủ. Bá Toàn đau chân không thể bám theo kịp, đành bỏ dở thế công đứng thở dốc. Bất cứ điều gì thái quá đều có hại cả. Chân khí của Bá Toàn lúc này đã suy giảm mất một nửa. Lão ta vô cùng tiếc rẻ, cố trấn tĩnh chống đỡ đòn phản kích của kẻ địch. Tử Khuê đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, quay trở lại với chiêu "Nhật nguyệt tương vong". Chiêu này có lẽ xuất phát từ kiếm pháp Phù Tang, gồm mười tám thế chém bằng cả hai tay nặng tựa ngàn cân.

Khí thế hung hãn phi thường của chiêu kiếm đã làm cho Bá Toàn phải chột da, múa tít gươm và cán Quỷ kỳ để chống đỡ. Lão chỉ mong thủ thân chứ không hy vọng hóa giải nổi đường gươm lạ lùng kia.

Lần này tiếng sắt thép va chạm gay gắt chói tai hơn trước rất nhiều. Và trường kiếm của Bá Toàn đã gãy lìa khi Tử Khuê chém đến thức mười bày. Lão họ Phùng kinh hãi, vươn dài cán Quỷ kỳ, thọc liền ba thế vào ngực đối thủ để cứu vãn tình hình. Đòn này rất hiểm độc, đưa Tử Khuê vào cảnh "đồng quy ư tận" và Bá Toàn tin rằng đối phương không dám đổi mạng vì đang chiếm thế thượng phong.

Trong lúc đôi mắt vẫn tràn đầy vẻ kinh ngạc. Quần hào và bọn quân binh mừng rỡ reo hò như sấm dậy.

° ° °

Hôn lễ của Tử Khuê và bốn ả giai nhân được cử hành vào đầu tháng mười một. Và hai tháng sau, Diêm Vương miếu được khánh thành. Tòa miếu uy nghi tráng lệ này tọa lạc trên nền cũ của Quách gia trang cạnh bờ sông Thạch Lương. Nó lớn và đẹp hơn hẳn miếu thờ Quan Vân Trường ở gần đấy.

Trong chính điện đặt một tượng Phong Đô Đại Đế ngồi trên ngai, lớn cỡ người thật, bằng đồng dát vàng ròng. Tả hữu của ngài có hai vị Phán Quan đứng hầu. Số đạo sĩ phục vụ trong miếu đông độ bốn năm chục người và là đệ tử Thiên Sư giáo.

Tất cả những bức tượng của Diêm Vương miếu đều được phủ kín bằng hàng trăm tấm tranh bích họa khổ lớn, miêu tả cảnh kẻ ác chịu hình phạt trong ngục A Tỳ. Cạnh mỗi bức tranh là một vài câu giáo lý của cả ba đạo Khổng, Phật, Lão khuyên con người sống thiện lương, nhân nghĩa. Lối giáo hóa trực quan sinh động ấy xem ra rất có tác dụng. Khách thập phương nào rời miếu cũng trở thành nhũn nhặn, hiền lành, bởi lòng họ đang tràn ngập cảm giác sợ sệt và hối hận.

Diêm Vương miếu không chỉ bố thí vào những ngày Sóc, Vọng mà còn thực hiện những cuộc phát chẩn vĩ đại, mỗi khi ở đâu đó có thiên tại hoặc đói kém. Nếu địa phương bất hạnh nọ ở không xa thì lương thực, y phục, chăn mền sẽ được tập kết tại Diêm Vương miếu rồi chở đi.

Sau lần gặp gỡ Tần Hạnh Nga ở Thốc Sơn, Tử Khuê mới biết số tài sản của Long Vân Tú Sĩ đã được Bạch Nhi chôn dưới vườn hoa Mã gia trang. Và chàng quyết định đem gần sáu mươi vạn lượng vàng phi nghĩa kia ra làm việc thiện.

Tử Khuê đã trở thành Minh chủ Võ lâm. Thủ hạ dưới trướng chàng lại chính là người của Lôi Đình Thần Cung. Chàng mà không thu nhận thì chắc là họ sẽ phải đi ăn mày.

Phi Đao Bảo An hội vẫn an cư lạc nghiệp ở Trịnh Châu vì Trác Ngạn Chi đã chết. Đám kiếm thủ người Thổ thì về cả cố hương, nơi bộ tộc của họ đang sinh sống.

Đầu Hạ năm sau, quân Mông Cổ ráo riết tấn công vùng quan ải phía Bắc, sắp sửa vượt qua Vạn Lý Trường Thành. Thế nước cực kỳ nguy ngập, vua Hoằng Trị vội giáng chỉ, sai Hoài Âm Vương thống lĩnh đại quân ra biên tái tiếp viện.

Chu Kiềm liền bảo Tử Khuê chiêu tụ anh hùng võ lâm đi giúp nước. Hơn ngàn cao thủ Trung Nguyên đã theo chân Tử Khuê ngược Bắc. Ngoài Dịch Quan San, Lã Bất Thành còn có cả Nhạc Cuồng Loan và Phi Đao hội.

Thiên Kim, Tống Thụy, Tái Vân đều đang bụng mang dạ chửa nên chỉ mình Thanh Chân tháp tùng trượng phu.

° ° °

Người Mông Cổ là những chiến binh bẩm sinh, năm sáu tuồi đã biết cưỡi ngựa, bắn cung, và khi trưởng thành, họ có thể vừa phi ngựa như bay, vừa xạ tiễn cực kỳ chuẩn xác.

Người Hán cũng biết hai kỹ năng chiến đấu ấy song trình độ thua xa những kẻ mà họ gọi là man di mọi rợ. Nực cười ở chỗ trong lịch sử cổ đại Trung Hoa lại có vài tay thần xạ, bản lãnh nghiêng trời lệch đất. Hậu Nghệ thì bắn rơi cả mặt trời, còn Dưỡng Do Cơ bách bộ xuyên dương.

Cũng như Tần Thủy Hoàng, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương hiểu rõ sở đoản của dân tộc Hoa Hạ, nên ra sức củng cố hệ thống Vạn Lý Trường Thành để ngăn bước tiến của đám rợ phương Bắc.

Sau chín mươi năm cai trị Trung Hoa, người Mông Cổ suy yếu đi vì bị Hán hóa, mất hết cái vũ dũng truyền thống, trở thành nhút nhát, ngại khó nhọc, ngại chiến đấu và chỉ ham hưởng lạc. Do đó, người Trung Hoa mới diệt được nhà Nguyên, giành lại giang sơn.

Nhưng khi người Mông Cổ trở lại với nếp sống thảo nguyên kiêu dũng thì chẳng mấy chốc họ sẽ đáng sợ như xưa. Quả đúng thế, khoảng sáu bảy chục năm sau, quân Mông Cổ hùng mạnh hẳn lên, bắt triều Minh phải cống nạp tiền của, bảo vật, rồi cử binh đánh Trung Hoa, hạ được nhiều đồn ải. Thậm chí, người Mông còn bắt sống được cả vua Minh Anh Tôn ở đồn Thế Lộc, tỉnh Sát Cáp Nhĩ. Song nhờ có Vạn Lý Trường Thành mà nhà Minh vẫn giữ được xã tắc thêm hơn hai trăm năm nữa.

Vậy thì tại sao lúc này công trình phòng thủ vĩ đại ấy lại không ngăn được rợ Mông, để chàng trai họ Quách của chúng ta phải tòng quân cứu nước?

Nguyên nhân là vì người Mông Cổ đã mua được Bồ Đào Nha hai chục cỗ súng thần công cực kỳ lợi hại. Đây là loại Phật Lang Cơ pháo, bắn đạn nổ và có bộ phận ngắm chuẩn nên sức công phá rất dữ dội và khá chính xác. Tầm đạn của chúng lại dài gấp đôi hỏa khí của quân Minh.

Thuốc súng và hỏa khí là phát minh của người Trung Hoa, đến nửa đầu thế kỷ mười ba mới truyền bá sang Ấn Độ và Ả Rập. Vào thời nhà Nguyên, qua giao chiến với quân Mông Cổ, người Ả Rập biết tới hỏa khí và học được cách chế tạo, sử dụng. Sau đó, khi người châu Âu đánh nhau với người Ả Rập thì mới tiếp xúc với thuốc súng. Nhưng chính những dân tộc châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… lại mau chóng trở thành bậc thầy trong nghề hỏa dược, chế tạo ra những khẩu pháo vô cùng đáng sợ.

Trong lúc ấy, đến thời vua Hoằng Trị mà Trung Hoa chỉ có những loại hỏa khí yếu ớt, kém cỏi. Đồng Hỏa pháo của quân Minh bắn đạn đặc như đá, chì, sắt… độ dài đường đạn chỉ khoảng từ mười bộ đến hai trăm bộ.

Kết quả là Phật Lang Cơ pháo của quân Mông Cổ đã bắn sập cửa ải quân Đô Quan, ở phía Bắc huyện Xương Bình, cách Bắc Kinh chỉ chừng hai trăm dặm. Quân Minh bị bắt buộc phải dàn trận bên ngoài quan ải, dưới chân Vạn Lý Trường Thành, trực diện giao chiến với rợ Mông. Đạo quân tiếp viện của Hoài Âm Vương Chu Kiềm đã đến kịp lúc, đẩy quân Mông lùi xa ba dặm.

Những viên đạn pháo Tây Dương đã không còn có thể vươn tới Trường Thành, nên quân Minh cấp tốc sửa sang lại cửa ải. Tất nhiên là công trình này sẽ không được đẹp mắt và mang tính tạm bợ.

Vài ngày sau, quân Mông mở cuộc phản công, đẩy lùi quân triều đình, đưa đạo pháo đến vị trí cũ, và cửa ải lại tan hoang. Nhưng cuối cùng thì nhờ tài thao lược của Chu Kiềm và tinh thần vì nước quên mình của ba quân mà một lần nữa giặc Mông lại phải rút lui.

Trơng suốt mấy tháng trời, hai phe đã giao tranh hàng trăm trận, giằng có nhau trước cửa ải Quan Đo. Số thương vong của quân Mính đã lên đến hàng vạn, song cương thổ vẫn vẹn toàn.

Đáng lẽ ra, theo thông lệ thì mùa đông khắc nghiệt của vùng biên tái sẽ khiến rợ Mông phải lui binh, chờ sang xuân. Bởi cái lạnh cắt da xé thịt và những trận mưa tuyết mịt mù rất bất lợi đối với kỵ binh, cũng như việc tiếp tế lương thảo.

Khổ thay, năm nay thời tiết lại ấm áp lạ thường. Đông đã về lâu mà tuyết chỉ rơi lất phất, không đủ để làm chùn chân đàn chiến mã Mông Cổ. Và càng tệ hại hơn nữa khi bệnh sốt thương hàn lại bất ngờ hoành hành trong doanh trại quân Minh. Nó mau chóng lan thành dịch và giết chết hàng ngàn người, khiến lòng quân sĩ rối loạn, thậm chí có kẻ đã đào ngũ.


trước sau
Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!