Bạch Hổ Tinh Quân

Chương 7: Chương 7


trước sau

Chiều mùng sáu tháng chạp, Tử Khuê bồi hồi lỏng tay cương, chậm rãi qua cầu Bá Lăng. Dẫu cho tuyết rơi mù mịt, từ trên cầu này chàng vẫn nhìn thấy thấp thoáng bong dáng Quách gia trang, nơi có những người thân đang trông ngóng mình. Trong thư gửi về nhà hồi tháng tám, chàng đã nói rằng sang xuân mới có thể hạ sơn. Nay chàng về sớm thế này chắc song thân sẽ vui mừng lắm.

Dường như chính lá thư ấy đã khiến Âu Dương Mẫn không đặt phục binh ở dọc đường. Lão đã có nội gián là Nhâm Đức Tín, anh rể Tử Khuê, nên chẳng sợ bắt hụt con mồi.

Ngoài ra còn một số yếu tố khác khiến cho Tử Khuê được an toàn, đó là việc đối phương không biết dung mạo của chàng, sau bảy năm, một đứa bé trở thành người lớn và đổi khác. Giờ đây chỉ có song thân và hai bào tỷ của chàng mới có thể nhận ra, vì đã gặp vài lần trong mấy năm qua. Nghĩa là Nhâm Đức Tín muốn mô tả hoặc vẽ lại gương mặt vóc dáng của chàng cũng chẳng bắt được. Tất nhiên, gã không thể yêu cầu vợ mình giúp đỡ.

Cầu hẹp, Tử Khuê không thể phi nhanh chứ lòng chàng nôn nao, sôi sục chỉ muốn mau chóng trở lại chốn cũ dấu yêu. Cho nên vừa sang đến bờ bên kia, Tử Khuê lập tức rẽ trái ra, rồi giục ngựa phi nhanh. Nửa dặm chẳng là bao, lát sau chàng đã tới nơi.

Nhưng chàng chẳng dám gõ vào cánh cổng khép kín im lìm nọ, đứng lặng người một lúc rồi quay ngược trở ra, đi vào thành tìm chỗ trọ.

Theo kế hoạch Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành, Tử Khuê phải âm thầm trừng trị Nhâm Đức Tín trước khi công khai quay về Quách gia trang. Có như thế thì Âu Dương Mẫn mới không nghi ngờ chàng là thủ phạm, vô hiệu hóa nội gián là điều kiện tiên quyết để đảm bảo an toàn cho Tử Khuê và gia quyến.

Dĩ nhiên Tử Khuê chẳng thể giết anh rể để bào tỷ phải góa bụa, ba đứa cháu phải mồ côi. Cửu Hoa Chân Nhân đã dạy sư điệt một thủ đoạn phi thường, dầu Diệu Thủ Trần Cơ cũng phải bó tay.

Không những thế, Chân Nhân còn tặng Tử Khuê một quyển Y Cảo, tâm huyết của cả một đời để chàng trở thành người thừa kế trọn vẹn tuyệt học của Huyền Hư phái. Khác với Vu Mộc Chân Nhân và Thanh Long Chân Nhân, Cổ Sĩ Hoành nuôi chí trùng hưng môn phái, không chịu để tông môn mai một. Có lẽ ý tưởng nảy sinh khi ông gặp gỡ Tử Khuê, nhận ra chàng là bậc kỳ tài, đủ sức dương danh Huyền Hư phái trên chốn võ lâm.

Hơn nữa Tử Khuê đã tình cờ vào thế đối đầu với Minh chủ Âu Dương Mẫn, tức Huyết Mai Hội chủ, công địch của Võ Lâm. Chàng không thể rời xa Tỵ Lôi Thần Châu và đối phương thì quyết chiếm cho bằng được. Do đó, Tử Khuê bắt buộc phải chiến đấu để sinh tồn và trở thành vị tướng tiên phong trong sự nghiệp giáng ma.

Nếu chàng thành công, thanh danh sẽ lẫy lừng kim cổ. Lúc ấy, việc thu nhận đệ tử, khôi phục lại phái Huyền Hư dễ như trở bàn tay.

Bản thân Tử Khuê thì vốn không có ý định ấy vì sư phụ chàng, Vu Mộc Chân Nhân chưa hề đề cập đến. Nhưng chàng cho rằng đây là cách tốt nhất để báo công ơn như trời biển của ân sư. Vì thế, chàng nhất nhất nghe theo lời dạy bảo của tam sư thúc Cổ Sĩ Hoành. Hơn nữa, học võ để làm gì nếu không nuôi chí trừ gian diệt bạo. Nhắc lại đầu canh ba hôm ấy, Tử Khuê mặc bộ võ phục màu trắng, rời quán trọ tìm đến Nhâm gia trang trên phố chính bắc nam của thành Hứa Xương. Lúc tối, chàng đã ra ngoài sắm sửa y phục để thực hiện kế hoạch đã định sẵn.

Cơ ngơi này được mua bằng số vàng hồi môn của đại tỷ Tử Khuê là Quách Thu Dung, nhưng gái theo chồng nên trở thành tài sản họ Nhâm. Tử Khuê rất quen thuộc nơi đây vì thuở nhở thường lui tới chơi đùa. Đại tỷ chàng không có con trai nên thường tìm cách lôi kéo đứa em trai kháu khỉnh đến nhà mình bằng những món bánh kẹo ngon ngọt.

Tử Khuê biết rõ khuê phòng của chị mình nằm trong dãy nhà hướng bắc liền vượt tường sau, nhảy xuống vườn hoa rồi áp sát vách hậu, ghé mắt qua khe cửa mà quan sát .

Chàng rất hồi hộp và lo lắng khi lần đầu làm kẻ dạ hành, chỉ sợ bọn gia nhân phát hiện. May thay trong tiết trời lạnh giá này mọi người đều ngủ sớm và bọn gia đinh tuần tra cũng tìm chỗ kín gió mà ngồi chứ không đi qua đi lại. Họ có thể lơi là nhiệm vụ vì những cơ ngơi của nhà họ Quách được quan quân thành Hứa Xương ưu ái trong việc bảo vệ. Tổng binh Hứa Xương là cháu ruột của Quách trang chủ tức em thúc bá với Tử Khuê, gã được làm tổng binh cũng là nhờ vàng bạc và thế lực của Quách Thiên Tường. Vì vậy Quách Tử Xuyên đã bắt bọn quân sĩ dưới trướng đêm đêm đội tuyết dầm sương rảo quanh nhà của hai biểu tỷ Thu Dung, Xuân Hương. Đối với Quách gia trang ở ngoại thành, gầm cầu Bá Lăng, việc tuần tra bảo vệ còn được thực hiện nghiêm ngặt hơn.

Thực ra Tử Xuyên chẳng lỗ lã gì vì vẫn nhận được những khoản ban thưởng của Quách gia trang. Ngay bọn lính tuần cũng có phần vui vẻ hoàn thành nhiệm vụ.

Nhưng sự mẫn cán của họ chỉ dọa được bọn đạo chính cò con, và vô dụng trước những cao thủ võ lâm. Lúc nãy, Tử Khuê dễ dàng qua mặt bọn lính tuần, vượt bức tường cao hon trượng chỉ bằng một động tác nhún chân.

Trở lại với kẻ dạ hành bất đắc dĩ là Tử Khuê, chúng ta sẽ thấy chàng đang rầu rĩ khi chứng kiến cái cảnh gia đình bào tỷ bị xào xáo, bất hoà. Thì ra, Nhậm Đức Tín vừa từ thanh lâu trở về, người nồng nặc mùi rượu và son phấn.

Khi bị Quách Thu Dung cằn nhằn, trách móc thì họ Nhậm hùng hổ nạt:

- Nàng chớ nhiều lời, Nhâm mỗ không có con trai nối dỗi tông đường nên lòng chẳng vui, phải chơi bời để giải khuây thế thôi.

Quách Thu Dung cười nhạt:

- Tướng công là thứ nam, trong khi cháu đích tôn họ Nhâm đã có rồi, thì việc tiện thiếp có sinh con trai hay không nào có quan trọng gì?

Đức Tín đuối lý, trả đũa một cách đểu cáng. Gã nhếch mép mỉa mai:

- Thực ra ta đến thanh lâu vì quá chán cái thân thể nhão nhẹt, béo phệ cũng như gương mặt xấu xí của nàng đấy.

Đối với nữa nhân, chê bai nhan sắc là câu mạt sát nặng nề nhất. Quách Thu Dung tái mặt, dòng lệ tủi hổ trào tuôn, ôm mặt chạy ra khỏi khuê phòng, sang ngủ với các con.

Nhâm Đức Tín cười đắc ý, lảo đảo đi theo, đóng sầm cửa phòng lại rồi trở vào, leo lên giường. Gã đã say mèm nên không nghĩ đến chuyện cài then cửa và chỉ lát sau đã ngáy khò khò. Tử Khuê thương cho hoàn cảnh của chị mình, liền thay đồi chút ít thủ đoạn. Theo kế hoạch của Cửu Hoa Chân Nhân Cổ Sĩ Hoành thì Tử Khuê phải dùng phép tỏa kinh bế mạch biến họ Nhâm thành kẻ bại liệt, giống như người trúng gió vậy.

Tử Khuê mau chóng nhảy lên mái ngói, chuyển ra phía trước, vào bằng cửa chính. Chàng thận trọng điểm Thụy Huyệt của gã say khốn kiếp rồi mới hạ thủ.

Phất huyệt là phần quan trọng nhất của pho Thao Quang thần thức, nên sau bảy năm khổ luyện, Tử Khuê vẫn có thể nhắm mắt mà vẫn điểm huyệt chính xác, chẳng sai một ly. Sáng mai, khi thức dậy, Nhâm Đức Tín sẽ nghe đau ở hai khớp gối, hai cùi chỏ và xương hàm, gã chỉ có thể đi thật chậm như một lão già chín mươi, còn hai tay thì chỉ đủ sức để bưng chén cơm hoặc chùi đít. Gã cũng sẽ thôi chửi bới vợ con vì nói năng khó khăn.

Nhưng có một thứ vẫn nguyên vẹn là khả năng dục tình. Lúc ấy, họ Nhâm sẽ phải lạy lục, van xin người vợ già xấu xí của mình.

Xế trưa mùng chín tháng chạp, Tử Khuê dừng cương trước cổng Quách gia trang. Chàng nôn nao gõ dồn dập vào cánh cửa gỗ khiến gã gia đinh ra mở cửa phải bực bội.

Gã nhăn nhó trách:

- Túc hạ là ai mà sao lại có cái lối gọi cửa vô lễ như vậy?

Tử Khuê nhận ra gã là Tiểu Toàn, con của lão đầu bếp Quách gia trang. Tiểu Toàn bằng tuổi chàng, và thuở nhỏ hai người rất thân nhau. Giờ đây Tiểu Toàn đã trở thành một tráng đinh lực lưỡng, râu mép lún phún, Tử Khuê mừng rỡ nói:

- Tiểu Toàn đấy ư? Ta là Tử Khuê đây!

Gã giật mình nhìn chàng thật kỹ rồi rú lên:

- Ôi,thiếu gia!

Và gã ôm chầm lấy chàng, vỗ lưng bồm bộp theo cách mà bọn nam nhân thường làm.

Tiếng rú của gã đã đánh động một ả nữ tỳ đang quét tuyết ngoài cửa thuỳ hoa, cửa dẫn vào sân trong. Ả này vội quăng chổi chạy vào bẩm báo.

Cả nhà lập tức kéo ra, chủ tớ chẳng sót một ai. Tử Khuê và Tiều Toàn cũng dắt díu nhau vào đến, qua khỏi cửa thuỳ hoa thì gặp người thân.

Chàng vô cùng xúc động khi thấy song thân, liền phục xuống lạy:

- Bất hiếu nhi bái kiến huyên đường.

Quách Thiên Tường cười ha hả, ánh mắt rực rỡ niềm vui sướng. Còn Kỹ nương bước đến đỡ ái tử dậy rồi ôm lấy mà khóc ròng.

Tử Khuê cũng mủi lòng song không dám để lộ vì sợ bọn tỳ nữ chê cười. Họ đang dán những ánh mắt ngưỡng mộ vào gương mặt khôi ngô của cậu chủ trẻ, người sẽ cưu mang họ sau này. Họ không dám mơ trở thành vợ chàng song làm tỳ thiếp thì có thể.

Bữa cơm trưa trở thành tiệc đoàn viên, vài món được nấu thêm dọn lên hơi trễ.

Lúc chuẩn bị tắm gội, Tử Khuê sực nhớ ra hỏi từ mẫu:

- Mẫu thân! Chiêm đệ đâu sao chẳng thấy?

Kỹ nương thở dài, nặng trĩu u buồn:

- Chiêm nhi mắc bệnh lạ đã hai tháng nay, các đại phu trong thành đều bó tay, nếu sống sót thì cũng trở thành phế nhân.

Tử Khuê bàng hoàng chết lặng, lòng dạt dào nỗi xót thương đứa em bé bỏng. Sực nhớ đến quyển Y Cảo mà Cửu Hoa Thánh Y đã tặng, chàng mừng rỡ an ủi mẹ :

- Mẫu thân chớ muộn phiền. Hài nhi đã gặp kỳ Hoàng sư thúc tổ, được người tặng cho quyển y kinh. Mẹ con ta nghiên cứu quyển sách ấy tất sẽ tìm ra cách chữa trị cho Chiêm đệ.

Thực ra trong nghề võ cùng đồng bối với Kỹ nương, nhưng trước mặt từ mẫu vẫn gọi Cửu Hoa Thánh Y là sư thúc tổ.

Kỹ Thanh Lam vui mừng khôn xiết reo lên :

Đa tạ hoàng thiên. Ta đã nghĩ đến Tam sư thúc nhưng chẳng biết ở đâu mà tìm.

Bà hân hoan nhận lấy quyển sách thuốc dày cộm và nhìn con trái với ánh mắt chan chứa yêu thương.

Đến giữa giờ Ngọ thì hai chị và hai anh rể của Tử Khuê đã có mặt. Nhâm Đức Tín được vợ dìu đi, lê lết từng bước rất khổ sở, mặt nhăn như khỉ. Nhưng mắt gã sáng lên khi thấy viên ngọc tròn màu tía trên ngực em vợ.

Lúc Tử Khuê đến chào, gã thều thào bảo:

- Này tam đệ! Phải chăng…. đấy là viên Tỵ Lôi Thần Châu? Ngươi đưa tỷ phu xem thử.

Tử Khuê vui vẻ gật đầu, tháo dây tơ, trao viên ngọc giả cho họ Nhậm, miệng thì nói:

- Công dụng của thần châu cũng không lớn lắm, dù đeo nó mà tiểu đệ cũng mấy lần ngã lăn vì sét đánh, nhưng được cái là chẳng thể chết. May mà giờ tiểu đệ đã qua tuổi mười tám, chẳng còn cần đến Tỵ Lôi Thần Châu nữa.

Nhậm Đức Tín mừng húm, chỉ chực mở miệng ra xin, nhưng Nhị tiểu thư Quách Xuân Hương đã buột miệng:

- Ngu tỷ nghe đồn lão Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn cũng bị Thần Lôi ám quẻ, đang cần mua Tỵ Lôi Thần Châu với giá vạn lượng vàng.

Nàng quản lý ba bốn tửu lâu nên chẳng thiếu thông tin.

Quách Thu Dung bật cười nói đùa:

- Thế thì hay quá. Chừng nào ngu tỷ thiếu vốn thì Tam đệ bán đi cho ta mượn.

Kỹ nương dịu dàng xen vào:

- Đấy là kỷ vật của sư phụ Tử Khuê, chẳng thể bán được.

Sau bữa tiệc tương phùng đầy ắp tiếng cười, Nhâm Đức Tín nôn nóng đòi về, mượn cớ chân đau chẳng tiện ngồi lâu. Quách Thu Dung liền sai gia nhân đánh xe đưa gã về trước, còn mình ở lại trò chuyện với đứa em trai cách biệt đã lâu.

Họ Nhâm về đến nhà lập tức viết thư sai gã gia đinh thân tín đi trao cho thủ hạ của Âu Dương Mẫn. Ở mỗi địa phương sầm uất, phồn vinh đều có vài tên thủ hạ của Minh chủ võ lâm cắm chốt. Nhiệm vụ của chúng là dò la tình hình giới giang hồ và các bang hội, báo về tổng đàn bằng đường dây dịch trạm.

Do đó, chỉ sáu ngày sau là Âu Dương Mẫn gõ cửa Quách gia trang. Cùng đi với lão có Diệu Thủ Thần Cơ, ba mươi gã vệ sĩ và một lão nhân râu năm chòm.

Lão ta tuổi độ sáu mươi lăm, trán cao, mắt sáng, đầy vẻ thông tuệ, nếu mũi không quá tẹt và miệng không quá nhỏ thì cũng khá đẹp lão. Bác Cổ Tiên Sinh Lương Viễn Phương lừng danh trung thổ vì kiến văn uyên bác tinh thông nghề thiết kế cơ quan ám khí, và là một bậc thầy trong ngành khảo cổ.

Âu Dương Mẫn mời Lương Viễn Phương đi theo để thẩm định viên Tỵ Lôi Thần Châu. Dù đối với lão vạn lượng vàng không lớn nhưng nếu mua nhằm của giả thì mạng già sẽ ra ma.

Theo đúng lễ, khách đưa bái thiếp cho gia nhân rồi đứng đợi. Gã Tiểu Toàn hộc tốc chạy vào báo cho Quách trang chủ.

Lúc này thì vợ chồng Quách Thiên Tường đã được Tử Khuê kể rõ ngọn ngành và có sẵn kế sách đối phó. Trang chủ thản nhiên bảo Tiểu Toàn ra mời khách nhập trang.

Ba mươi gã kiếm sĩ Tổng đàn đứng ngoài giữ ngựa, chỉ có Âu Dương Mẫn và hai lão nhân đi theo Tiểu Toàn.

Quách trang chủ một mình tiếp khách, vui vẻ bảo ả nữ tỳ Tiểu Cầm châm trà.

Sau khi nhấp vài hớp trà Long tỉnh thượng hạng, Âu Dương Mẫn trình bày mục đích của mình. Quách Thiên Tường chau mày ngạc nhiên:

- Tại sao tôn giá lại biết việc Quách gia trang sở hữu thần châu?

Âu Dương Mẫn ỡm ờ đáp:

- Có người tình cờ nhìn thấy lệnh lang đem ngọc đi dạo phố nên đã đến báo với lão phu.

Quách trang chủ gật gù chấp nhận lý do ấy rồi nói:

- Đúng là hiện nay khuyển tử đã khoát tai ương, không cần đến Tỵ Lôi Thần Châu nữa. Nhưng nó lại là di vật của sư phụ nên e rằng Khuê nhi chẳng chịu bán. Nay Âu Dương Huynh đã khẩn khoản như thế, để lão phu cho gọi khuyển tử ra hỏi ý.

Diệu Thủ Thần Cơ cười mát, nói một câu đầy ẩn ý:

- Cứu một mạng người còn hơn xây bảy cấp phù đồ. Nếu trang chủ cố khuyên lệnh lang nhường lại Tỵ Lôi Thần Châu thì công việc kinh doanh của nhà họ Quách sẽ ngày càng thịnh vượng. Lỡ quý hiện có bị ai cạnh tranh hay quấy rối thì Âu Dương Minh chủ sẽ ra oai trấn áp giùm.

Quách Thiên Tương là kẻ lọc lõi chốn thương trường, thừa bãn lãnh để thay đổi, sắc mặt giả vờ sợ hãi, bối rối trước lời nói hăm dọa của đối phương. Ông đứng lặng người một lúc rồi thiểu não nói:

- Lão phu đã hiểu ý tứ Tư Mã lão huynh, sẽ tận lực thương lượng với khuyển tử.

Ông đứng lên lật đật đi vào trong. Nửa khắc sau Quách trang chủ trở ra cùng con trai.

Từ ngày hồi trang, Tử Khuê bị song thân bắt phải trút bỏ cái lốt đạo sĩ, mặc y phục bằng gấm lụa, chàng cũng ăn mặn để từ mẫu được vui lòng. Chàng là người thừa kế hương hỏa dòng họ Quách nên không thể đi tu được Quách lão còn đốc thúc ái tử cưới vợ song chàng đã khất lần.

Hôm nay Tử Khuê mặc trường bào gấm xanh, ngoài khoác áo khinh cừu ngắn, trông như chàng công tử văn nhã chẳng chút gì giống kẻ học võ cả.

Quách trang chủ giới thiệu con trai với khách. Tử Khuê chắp tay thi lễ rồi ấp úng:

- Bẩm Âu Dương Minh chủ. Nếu người thực sự cần đền Tỵ Lôi Thần Châu thì vãn bối chẳng dám tiếc. Có điều là viên ngọc này không thực sự công hiệu như lời đồn đãi. Gia sư bảo rằng nó chỉ giúp người đeo được toàn mạng chứ không tránh khỏi sự khiếp sợ và tổn thương nho nhỏ. Sau này, mong Minh chủ chớ trách vãn bối không nói trước.

Tử Khuê chẳng quen nói dối nên lời lẽ ngập ngừng, ánh mắt đầy vẻ sợ sệt. Nhưng Âu Dương Mẫn và hai đồng đảng lại cho rằng chàng muốn bán đâu mà phải trả. Nhà họ Quách giàu có đã mấy đời, chẳng tham vạn lượng vàng làm gì.

Âu Dương Mẫn nghe vậy lại càng tham tiết muốn mua. Da thịt lão rất bền chắc nhờ Thiết Sa Thần Công, hơn hẳn gã công tử yếu đuối kia, nên sẽ chẳng hề suy suyễn. Lão chỉ cần cái công dụng bảo mạng của Tỵ Lôi Thần Châu là quá đủ rồi.

Nghĩ vậy nên Âu Dương Mẫn đáp lời:

- Công tử thành thật như thế thì sao lão phu dám oán trách. Mong công tử cho bọn lão phu xem qua cái vật kỳ lạ ấy.

Tử Khuê tháo ngọc đặt xuống bàn rồi lui về, đứng sau lưng phụ thân chàng. Chàng là hậu bối, không được phép ngồi chung với khách của cha mẹ, trừ phi họ yêu cầu.

Âu Dương Mẫn cầm lấy, xem qua loa, thấy bề mặt của viên ngọc tía nhỏ cỡ hột nhãn này chi chít những chữ nhỏ như kiến. Không phải Hán tự tức có thể là chữ Phạn.

Lão mù tịt nên đưa sang cho Bác Cổ Tiên Sinh Lương Viễn Phương. Lương lão xem xét bằng một mảnh pha lê trong suốt hình bán cầu, bằng cỡ nửa trái cam. Nó chính là kính phóng đại do người Tây Dương làm ra, đem đến Trung Hoa bán với giá đắt hơn vàng.

Người Trung Hoa phát minh ra nhiều thứ, trước các nước phương Tây cả mấy chục năm nhưng chẳng hiểu sao họ lại thất bại trong ngành thuỷ tinh, làm ra những sản phẩm chỉ đáng gọi là "ve chai".

Việc chế tạo thuỷ tinh ở Trung Quốc đã có nguốn gốc từ thời nhà Thương. Ngành này có quan hệ chặt chẽ với công việc làm đồ sứ và luyện kim. Thời Trung Hoa đã có những lò nung đạt đến đạt đến tới nhiệt độ một ngàn năm trăm ba mươi độ, đủ điều kiện làm thuỷ tinh.

Có lẽ, loại thuỷ tinh đầu tiên ở Trung Hoa là sản phẩm phụ khi đúc đồng. Lúc thải bỏ xỉ, người ta ngẫu nhiên phát hiện ra thuỷ tinh.

Ngay đến tận thời nhà Minh, Trung Quốc vẫn chưa làm được loại thuỷ tinh trong suốt, chất lượng cao chứ đừng nói đến thuỷ tinh quang học.

Đầu tiên, khoảng thời Nam Tống, có thể kính mắt, tức kính lão được đưa từ các nước Ba Tư vùng Tây Vực vào Trung Hoa, giá đắt ngàn vàng.

Sau này, người Tây phương đã mang kính lão và những sản phẩm thuỷ tinh khác đến Trung Hoa. Kính cận thì tới thời nhà Thanh mới có.

Nghĩa là Bác Cổ Tiên Sinh vì nhu cầu nghề nghiệp mà đã phải cắn răng bỏ ra mấy trăm lượng vàng để mua cái cục thuỷ tinh nặng trịch ấy. Nhưng lão sẽ không bao giờ phải hối tiếc vì giờ đây những chữ Phạn nhỏ li ti kia lớn lên gấp mấy lần rõ ràng từng nét. Và không hổ danh uyên bác, Lương lão đọc được ngay câu thần chú trúc trắc, khó hiểu nọ. Tổng cộng gần ba trăm sáu mươi chữ, đúng như cổ thư đã ghi chép. Hơn nữa, có vài chục chữ đã hơi mờ và mòn đi bởi tay người, đúng là đồ cổ.

Lão không biết rằng Ngụy Công tử Tề Thúc Như thừa thủ đoạn để làm cho một vật già đi vài trăm tuổi. Làm mòn vẹt là dễ nhất, mài vào da trâu ít khắc là xong.

Hơn nữa Bác Cổ Tiên Sinh chưa hề thấy qua vật thực, thì làm sao phân biệt giả chân? Lão chỉ đinh ninh rằng chủ cũ chẳng có động cơ gì để đưa ra của giả, và nhà họ Quách chỉ bán vì bị hăm dọa.

Do đó Lương lão vững dạ tuyên bố với Âu Dương Mẫn:

- Chúc mừng Minh chủ mua được bảo vật.

Âu Dương Mẫn hân hoan móc ra xấp ngân phiếu vạn lượng hoàng kim, đẩy về phía Quách trang chủ rồi cảm ơn rối rít.

Quách Thiên Tường làm ra vẻ miễn cưỡng, sai Tiểu Cầm lấy văn phòng tứ bảo. Lão viết nhanh hai bản văn tự với đầy đủ những ý mà Tử Khuê đã nói, song phương ấn ký rồi chia nhau mỗi người một bản. Vậy là dẫu sau này Âu Dương Mẫn có bị sét đánh thọ thương thì cũng chẳng thể đổ thừa cho Quách gia trang.

Nước cờ này rất tuyệt diệu, đề phòng đối phương bị Lôi Thần thăm viếng lần nữa mà không chết. Còn như lão chết toi thì võ lâm thoát nạn và sẽ chẳng còn ai để kiện cáo.


trước sau
Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!