Kurt Cilke tin vào luật pháp, vào những luật lệ mà con người đã tạo ra để sống một cuộc sống thanh bình. Ông luôn luôn cố tránh những thoả hiệp có thể làm suy yếu một xã hội công bằng, và ông đấu tranh không khoan nhượng với những kẻ thù của đất nước. Sau hai mươi năm tranh đấu lòng tin của ông đã rơi rụng nhiều.
Chỉ có vợ ông vẫn sống như ông mong đợi. Những chính khách là những kẻ nói dối, người giàu tàn nhẫn trong ham muốn quyền lực, người nghèo thì sa đọa. Và còn có những kẻ lừa đảo bẩm sinh, những kẻ bịp bợm, vũ phu và giết người. Những người thừa hành pháp luật chỉ tốt hơn chút ít, nhưng bằng cả tấm lòng ông vẫn tin tưởng rằng Cục Điều tra Liên bang là tốt đẹp nhất. Năm ngoái ông có một giấc mơ luôn tái diễn. Trong mơ ông là một cậu bé mười hai tuổi và ông phải dự một kỳ thi quan trọng của trường. Kỳ thi sẽ kéo dài cả ngày. Khi ông rời khỏi nhà, mẹ ông khóc, và trong giấc mơ ông hiểu vì sao. Nếu thi trượt, ông sẽ không gặp lại mẹ mình.
Trong mơ ông hiểu nạn giết người đã tràn lan đến mức một bộ luật đã được soạn thảo nhờ sự trợ giúp của cộng đồng tâm thần nhằm triển khai một kế hoạch kiểm tra y tế về tâm thần cho phép phát hiện sớm những đối tượng mười hai tuổi khi lớn lên có thể trở thành kẻ giết người. Những đứa trẻ thi trượt sẽ biến mất một cách đơn giản. Y học đã chứng minh rằng nhiều kẻ ham muốn trở thành sát nhân vì việc giết người mang lại cho chúng khoái lạc. Do đó cần phải loại bỏ những kẻ có gen giết người từ khi chúng còn nhỏ.
Sau kỳ thi ông trở về nhà. mẹ ông ôm chặt lấy ông và hôn ông. Các cô các chú của ông đã chuẩn bị một bữa tiệc mừng thịnh soạn. Sau đó, còn lại một mình trong phòng ngủ, ông run lên vì sợ hãi vì biết đã có một nhầm lẫn. Lẽ ra ông không vượt qua được kỳ thi, và rồi đây ông sẽ lớn lên thành kẻ giết người.
Giấc mơ lặp lại hai lần, và ông không kể cho vợ nghe vì ông biết giấc mơ nói lên điều gì.
Mối quan hệ của Cilke với Timonona Portella đến nay đã được hơn sáu năm. Nó bắt đầu khi Portella giết một thuộc hạ trong cơn nóng giận mù quáng. Ngay lập tức Cilke phát hiện ra các khả năng. Ông đã thu xếp để Portella trở thành một kẻ cung cấp tin về Mafia, đổi lấy việc không bị truy tố tội giết người. Ngài giám đốc đã chuẩn y kế hoạch, và phần còn lại đã đi vào lịch sử. Nhờ có Portella, Cilke đã dẹp tan Mafia New York nhưng lại phải nhắm mắt làm ngơ trước việc làm của Portella, kể cả việc y kiểm soát hoạt động kinh doanh ma túy.
Nhưng Cilke, được sự chấp thuận của giám đốc, đã có kế hoạch hạ bệ Portella một lần nữa. Người ta xác định Portella đã giành được việc sử dụng các nhà băng của Aprile để rửa tiền buôn bán ma túy. Tuy nhiên Aprile tỏ ra khá cứng đầu. Tại một cuộc gặp mặt quan trọng Portella đã hỏi Cilke,
- FBI có theo dõi Aprile khi lão đến dự lễ thêm sức của cháu lão không?
Cilke hiểu ngay tức khắc, nhưng ông do dự trước khi trả lời. rồi ông nói chậm rãi
- Tôi bảo đảm người ta sẽ không làm chuyện đó. Nhưng còn NYPD thì sao?
- Việc đó đã được lo liệu, Portella trả lời.
Và Cilke biết ông sẽ là tòng phạm với tội sát nhân. Nhưng chẳng lẽ lão Trùm Aprile không xứng đáng với điều đó hay sao? Phần lớn cuộc đời mình lão là một tội phạm. Lão đã về hưu với số tài sản khổng lồ mà pháp luật không thể đụng tới. Và hãy nhìn vào cái được. Bằng việc giành quyền sử dụng các nhà băng của Aprile, Portella sẽ đâm thẳng vào bẫy của ông. Tất nhiên, ở hậu trường luôn luôn có mặt Inzio với mơ ước có kho vũ khí hạt nhân của riêng mình. Cilke biết rằng với một chút may mắn là ông có thể kết thúc toàn bộ vụ này và chính phủ có thể thu hồi những nhà băng trị giá mười tỷ đô la của Aprile theo luật RICO, vì, chẳng nghi ngờ gì nữa, những kẻ thừa kế của lão sẽ bán các nhà băng, sẽ ký kết một hợp đồng với những sứ giả bí mật của Portella. Và mười hay mười một tỷ đôla sẽ là một vũ khí hiệu nghiệm chống lại chính tội ác.
Nhưng Georgette sẽ coi thường ông, vì vậy không được để nàng biết. Xét cho cùng, nàng sống trong một thế giới khác.
Nhưng bây giờ ông phải gặp lại Portella. Còn cả vụ những người Đức chăn cừu bị giết và ai đứng đằng sau vụ này. Ông sẽ phải bắt đầu với Timmona.
Hiếm có người Italia thành đạt nào lại giống Timmona Portella: Năm mươi tuổi mà vẫn chưa vợ. Nhưng hắn lại chẳng độc thân chút nào. Hắn dành hầu hết các đêm thứ sáu sống chung với một người đẹp từ các đường dây do thuộc hạ kiểm soát. Chỉ thị của hắn là cô nàng phải trẻ, không quá dai sức trong cuộc chơi, phải đẹp và mỡ màng. Cô nàng phải hưng phấn và vui vẻ nhưng không được quá mức. Và không được đề xuất những trò quái đản. Timmona là một kẻ làm tình theo lối chân phương. Hắn có những thói quen lạ lùng nhưng vô hại, chẳng hạn các cô nàng phải có cái tên Anglo – Saxon dễ nghe như Jane hay Susan, hắn có thể gọi chệch thành Tiffany hay thậm chí Merle. Rất ít khi hắn xài một ả tới hai lần.
Những cuộc hẹn hò kiểu này luôn diễn ra trong một khách sạn nho nhỏ ở khu East Side do một trong các công ty của hắn sở hữu. Ở đó hắn được sử dụng cả một tầng bao gồm hai căn hộ khép kín. Một căn có nhà bếp chứa đầy đồ ăn ( vì Portella là một đầu bếp nghiệp dư có tài) kiểu Bắc Italy, mặc dù cha mẹ hắn sinh ra tại Sicily. Và hắn rất khoái nấu nướng.
Đêm nay cô gái được chủ đường dây đưa đến Tên này ở lại uống với hắn chút đỉnh ròi biến mất. Sau đó Portella vừa nấu nhanh bữa khuya cho hai người vừa nói chuyện và làm quen. Tên ả là Janet. Portella nấu rất nhanh. Hắn nấu những món khoái khẩu của mình: bê thui kiểu Milan, mì ống nấu với nước sốt thêm chút pho mát Gruyere, cà tím nướng, salad trộn với cà chua. Món tráng miệng là đủ loại bánh ngọt lấy từ một cửa hiệu bánh ngọt nổi tiếng của Pháp ở gần đấy.
Hắn tiếp Janet một cách lịch sự. Là kẻ ục ịch, đầy lông lá cái đầu to và da dẻ sần sủi nhưng khi ăn hắn luôn chơi cả sơ mi, cà vạt và áo khoác. Trong bữa ăn, với một vẻ quan tâm hiếm thấy ở một người hung ác, hắn hỏi Jannet về cuộc sống của ả, và tỏ vẻ thích thú lắng nghe câu chuyện về những bất hạnh ả kể ra. Để cứu cái gia đình nghèo khó của mình ả đã bị cha, các anh, đám nhân tình và đám đàn ông quyền thế phản bội. Thông qua áp lực của đồng tiền và những lần mang thai ngoài ý muốn chúng đã đưa ả vào một cuộc sống tội lỗi. Hắn sửng sốt trước những nhơ nhuốc mà những kẻ cùng giới với hắn đã thể hiện và ngạc nhiên về lòng tốt với phụ nữ của chính mình. Vì với phụ nữ, hắn nổi tiếng hào phóng không chỉ bởi cho họ nhiều tiền.
Sau bữa ăn, hắn mang rượu vào phòng khách và cho Janet xem sáu hộp nữ trang: một chiếc đồng hồ vàng, một nhẫn hồng ngọc, đôi khuyên tai kim cương, một vòng cổ bằng ngọc bích, một chiếc kim băng tay khảm đá quý và một chuỗi hạt ngọc trai hoàn hảo. Hắn bảo Janet chọn lấy một thứ làm kỷ niệm. Tất cả đều có giá vài ngàn đôla.
Nhiều năm trước một trong các nhóm của hắn đã đánh cướp một xe tải nhỏ chở nữ trang và hắn đã giữ lại nhiều hơn là đem bán. Vì thế quà tặng chẳng đáng giá gì với hắn.
Trong khi Janet cân nhắc thứ mà ả muốn và cuối cùng ả chọn chiếc đồng hồ thì hắn chuẩn bị cho ả tắm. Hắn cẩn thận kiểm tra độ nóng của nước, sắp sẵn cho ả những loại nước hoa và xà phòng hảo hạng. Chỉ sau khi ả đã thư giãn hắn mới đưa ả lên giường ân ái nồng nàn như một cặp vợ chồng hạnh phúc.
Nếu đặc biệt hứng, hắn có thể giữ cô gái đến bốn hoặc năm giờ sáng, nhưng hắn không bao giờ đi ngủ khi cô ả vẫn còn trong căn hộ của mình. Đêm ấy, hắn cũng cho Janet về sớm.
Hắn làm chuyện đó cũng là vì sức khỏe của mình. Hắn biết bản tính phóng đãng có thể dẫn hắn đến rắc rối. Những cuộc hẹn hò hàng tuần như thế làm hắn dịu lại. Đàn bà nhìn chung có tác dụng vỗ về và hắn chứng minh công hiệu của nó bằng việc thứ bảy nào cũng tới bác sỹ của mình. Hắn thỏa mãn khi biết rằng huyết áp của hắn đã trở lại bình thường. Khi hắn kể cho bác sỹ nghe phương pháp điều trị của mình, tay này chỉ biết lắp bắp, “tuyệt quá”. Portella rất thất vọng về tay bác sỹ.
Còn một thuận lợi nữa ở địa điểm này. Các vệ sỹ của Portella bị cách ly ở mặt trước căn hộ. Nhưng vẫn còn lối cửa say dẫn tới căn hộ kế bên có cửa vào một hành lang riêng biệt. Đấy là Portella có các cuộc tiếp xúc mà hắn không muốn những cộng sự thân cận nhất của mình được biết. Gặp một nhân viên đặc biệt của FBI là một việc làm rất nguy hiểm đối với một thủ lĩnh Mafia. Hắn sẽ bị nghi ngờ là kẻ cung cấp thông tin, và Cilke có thể bị tình nghi là người nhận hối lộ.
Chính Portella đã cung cấp số điện thoại để ghi âm, chỉ ra những kẻ nhu nhước không chịu được áp lực, những manh mối dẫn đến thủ đoạn giết người, và giải thích rõ các thủ đoạn đó thực thi ra sao. Và cũng chính Portella đã làm một số việc bẩn thỉu mà FBI không được phép làm.
Trong nhiều năm họ sử dụng mật mã cho việc sắp xếp các cuộc tiếp xúc. Cilke có chìa khóa mở cửa căn hộ đối diện phía bên kia hành lang vì vậy ông có thể vào mà không bị đám vệ sỹ của Portella phát hiện rồi chờ ở căn hộ phụ. Portella sẽ tống khứ ả đàn bà và cuộc gặp sẽ bắt đầu. Đêm nay Portella đang chờ Cilke.
Trong những cuộc gặp kiểu này Cilke luôn không cảm thấy thoải mái. Ông biết tất nhiên, ngay cả Portella cũng không dám làm hại một nhân viên FBI, nhưng con người này có tính tình gần như điên khùng. Cilke mang vũ khí, nhưng để che giấu tên chỉ điểm của mình ông không thể mang theo vệ sỹ.
Portella cầm ly rượu trên tay, và lời chào đầu tiên của hắn là
- Có cái đéo gì không ổn thế?
Nhưng hắn cười vui vẻ và ôm Cilke một nửa vòng tay. Cái bụng phệ của Portella được giấu kín trong chiếc áo choàng tao nhã của Trung Quốc buông trùm bên ngoài chiếc quần Pijamas màu trắng.
Cilke từ chối ly rượu, ngồi xuống ghế và bình tĩnh nói
- Vài tuần trước tôi đi làm về và thấy hai con chó của tôi đầu lìa khỏi cổ. Tôi nghĩ anh có thể có đầu mối? Ông quan sát kỹ Portella.
Nỗi kinh ngạc của Portella có vẻ như thật. Hắn đang lút mình trong chiếc ghế bành và dường như bị giật ra khỏi chỗ ngồi. Hắn nổi cơn thịnh nộ. Cilke không hề bị gây ấn tượng. Theo kinh nghiệm của ông, kẻ có tội dư sức phản ứng với vẻ hoàn toàn vô tội. Ông nói
- Nếu anh đang định cảnh cáo tôi một điều gì đó thì sao không nói thẳng ra?
Đến lúc này Portela nói, giọng đẫm nước mắt
- Kurt, anh mang vũ khí đến đây, tôi đã sờ thấy khẩu súng của anh. Tôi không có vũ khí. Anh có thể giết tôi rồi đổ thừa do tôi kháng cự. Tôi tin anh. Tôi đã đặt vào tài khoản của anh hơn một triệu đôla. Chúng mình là chỗ thân tình. Tại sao tôi phải dở cái ngón Sicily cũ kỹ ấy ra hả? Có kẻ nào đó đang cố đánh động chúng mình đấy. Anh phải thấy rõ điều đó chứ.
- Nó là ai? Cilke hỏi.
Portella trở nên đăm chiêu.
- Đấy chỉ có thể là thằng nhãi Astorre. Nó cứ tưởng mình quan trọng vì đã một lần thoát khỏi tay tôi. Hãy kiểm tra thằng nhãi, còn tôi sẽ có một hợp đồng cho nó.
Cuối cùng Cilke cũng bị thuyết phục.
- Ok, ông nói. Nhưng tôi nghĩ chúng ta phải thận trọng, không được đánh giá thấp thằng nhỏ.
- Đừng lo, Portella nói. Mà này, anh có muốn ăn chút gì không? Tôi có ít thịt bê, mì ống, salad và cả rượu ngon mà.
Cilke cười.
- Tôi tin anh. Nhưng tôi không có thì giờ để mà ăn uống.
Sự thật thì ông không muốn ăn nhậu với một kẻ ông sắp tống vào tù.
Lúc này Astorre đã có đủ thông tin để vạch ra kế hoạch tác chiến. Chàng tin rằng FBI đã nhúng tay vào cái chết của ông Trùm Aprile, và rằng Cilke phụ trách chiến dịch này. Lúc này chàng cũng đã biết ai là kẻ môi giới. Chàng biết Timmona Portella đã đề xuất hợp đồng. Song vẫn còn một vài bí ẩn. Ngài đại sứ, thông qua Nicole, đã đề nghị được cùng các nhà đầu tư nước ngoài mua các nhà băng. Cilke đã ngỏ ý muốn chàng hợp tác để lừa Portella vào một tình huống phạm tội. Đây là những thay đổi đáng lo ngại và nguy hiểm. Chàng quyết định tham khảo ý kiến Craxxi ở Chicago và mời ông Pryor về giúp mình.
Astorre đã yêu cầu ông Pryor sang Mỹ để điều hành các nhà băng của Aprile. Pryor chấp nhận, và thật khác thường, ông đã thay đổi một cách nhanh chóng, từ một quý ngài lịch lãm xứ Ăng – lê thành một vị giám đốc Hoa Kỳ đầy quyền lực. Ông đội mũ phớt thay cho mũ quả dưa, ông bỏ cây dù xếp của mình để cầm một tờ báo gấp. Ông đến cùng vợ và hai người cháu. Vợ ông từ một quý bà đoan trang trở thành một phụ nữ quần lụa áo là hoàn toàn đúng mốt. Hai đứa cháu của ông là dân Sicily nói toàn tiếng Anh hoàn hảo và có bằng kế toán. Cả hai đều là dân mê săn bắn. Họ để những dụng cụ đi săn của mình trên thùng chiếc limousine do một trong số họ cầm lái, thực tế, cả hai là những vệ sỹ của Pryor.
Gia đình Pryor về sống tại một ngôi nhà ở khu Thượng West Side. Ngôi nhà được những toàn tuần tra an ninh của một hãng tư nhân bảo vệ. Nicole, lúc đầu phản đối việc bổ nhiệm này, cũng nhanh chóng bị ông Pryor cuốn hút. Không nghi ngờ gì nữa, ông Pryor có sức hấp dẫn của một người cha đối với phụ nữ. Nicole rất ngưỡng mộ ông. Và hiển nhiên ông có thể điều hành các nhà băng - đến mức Nicole cũng phải kinh ngạc bởi kiến thức của ông về hệ thống ngân hàng quốc tế. Chỉ bằng buôn bán ngoại tệ ông đã làm tăng đáng kể mức lợi nhuận. Astorre vốn biết rằng Pryor là bạn thân của ông Trùm Aprile song nay ông vẫn nói rõ về mối quan hệ của họ.
- Tôi đã bảo bác cậu, ông Pryor nói, rằng các nhà băng sẽ giành được nhiều lợi nhuận mà lại ít rủi ro hơn cái kiểu kinh doanh của ông ấy. Cách làm ăn kiểu cũ như thế đã lỗi thời rồi. Chính phủ quá mạnh và quá quan tâm đến bọn ta. Đã đến lúc phải thay đổi. Các nhà băng là những xưởng đúc tiền nếu ta có kinh nghiệm, có những mối liên hệ cá nhân và chính trị. Không hề khoác lác, tôi có thể nói rằng tôi có được thiện chí của các chính khách Italy cũng là nhờ tiền. Ai cũng trở nên giàu có và chẳng có ai bị thương tổn hay phải ra trước vành móng ngựa. Tôi có thể trở thành một giáo sư đại học dạy mọi người làm sao để trở thành giàu có mà không phạm pháp và không phải dùng tới bạo lực. Cậu chỉ phải nắm chắc luật pháp. Cuối cùng, học vấn là chiếc chìa khoá dẫn đến một nền văn minh cao hơn.
Pryor đang giỡn chơi, tuy nhiên ông có phần nghiêm chỉnh. Astorre cảm thấy có một mối quan hệ mật thiết và sâu sắc với ông và dành cho ông niềm tin tưởng tuyệt đối. Trùm Craxxi và Pryor là những người chàng có thể trông cậy vào. Không chỉ xuất phát từ tình bạn: Cả hai người đó làm giàu nhờ mười nhà băng của Aprile.
Khi Astorre và Pryor đến nhà Trùm Craxxi ở Chicago, chàng ngạc nhiên thấy Pryor và Craxxi ôm hôn nhau vô cùng thân mật. Rõ ràng họ đã quá quen biết nhau.
Craxxi thết họ một bữa ăn gồm có trái cây và pho mát. Trong bữa ăn lão toàn chuyện hàn huyên với Pryor. Astorre lắng nghe với một vẻ hiếu kỳ hiếm thấy. Craxxi và Pryor nhất trí rằng những cách thức làm ăn cũ có quá nhiều nguy hiểm.
- Ai cũng bị cao huyết áp, ai cũng bị bệnh tim, Craxxi nói. Sống theo cách đó thật là kinh khủng. Còn đám lau nhau bây giờ chẳng hề biết đến danh dự. Được chứng kiến chúng bị quét sạch quả là điều đáng mừng.
- Ừ, ông Pryor nói. Nhưng tất cả chúng ta cũng phải bắt đầu ở mọt nơi nào đó chứ. Cứ nhìn vào chúng mình bây giờ mà xem.
Toàn bộ câu chuyện này khiến Astorre ngần ngại trình bày trực tiếp vấn đề. Hai anh già này đang làm cái quái gì thế? Ông Pryor cười thầm cái nhìn của Astorre.
- Đừng lo, chúng tôi còn chưa được phong thánh mà. Và tình thế đang thách thức mối quan tâm của chính chúng tôi. Vì vậy hãy nói cho chúng tôi biết cậu cần gì. Chúng tôi sẵn sàng bàn bạc.
- Tôi cần lời khuyên của các ngài, không thuộc lĩnh vực điều hành, Astorre nói. Đấy là việc của tôi.
- Nếu chỉ là việc báo thù thì ta khuyên cậu hãy quay về với nghiệp cầm ca của cậu. Nhưng ta nhận thấy, cũng như ta hy vọng cậu sẽ làm như vậy, đó là việc bảo vệ gia đình cậu trước mối nguy hiểm, Craxxi nói.
- Cả hai, Astorre nói. Nhưng bác tôi đã cho tôi được tập dượt chỉ để đối phó với tình huống này. Tôi không thể thất hứa với bác ấy.
- Tốt lắm, Pryor nói. Nhưng hãy hình nhận thực tế này: Những gì cậu đang làm là phản tự nhiên của cậu. Hãy cẩn thận với những mạo hiểm mà cậu sẽ phải đương đầu. Đừng để bị lôi cuốn đấy.
Trùm Craxxi ôn tồn nói:
- Vậy ta giúp được gì cho cậu đây?
- Ngài đã nhận định đúng về anh em thằng Sturzo, Astorre nói. Chúng đã thú nhận làm vụ đó và còn khai với tôi đứa môi giới là John Heskow, một kẻ tôi chưa từng nghe tới. Vì thế bây giờ tôi phải tìm ra nó.
- Còn anh em Sturzo? Craxxi hỏi.
- Chúng đã xong rồi.
Hai lão già im lặng. Sau đó Craxxi nói
- Ta biết Heskow. Nó làm nghề môi giới đã hai mươi năm nay. Có những lời đồn về việc nó đã môi giới một số vụ ám sát chính trị nhưng ta không tin. Còn bây giờ, bất kỳ phương pháp nào cậu đã sử dụng để buộc anh em thằng Sturzo lên tiếng cũng sẽ không nên áp dụng với Heskow. Nó là một nhà thương lượng có hạng, và nó sẽ nhận ra rằng nó phải mặc cả để khỏi mất mạng. Nó sẽ biết cậu rất cần những thông tin mà chỉ nó mới có thể cung cấp cho cậu.
- Nó có một đứa con trai và nó hết mực cưng chiều, Astorre nói. Một cầu thủ bóng rổ, thằng nhóc là tất cả đối với Heskow.
- Đấy là một kế sách cũ mà nó sẽ dùng đến, Pryor nói, bằng việc giữ lại những thông tin quan trọng và cung cấp cho cậu những thông tin không quan trọng. Cậu phải hiểu Heskow. Nó suốt đời mặc cả với cái chết. Hãy tìm phương pháp khác.
- Còn nhiều điều tôi muốn biết trước khi tôi có thể đi xa hơn, Astorre nói. Ai đứng sau vụ giết người, và nhất là tại sao? Tôi nghĩ, việc này phải liên quan đến các nhà băng. Có kẻ nào đó đang nhòm ngó các nhà băng.
- Thằng Heskow có lẽ biết ít điều về chuyện đó, Craxxi nói.
- Cái làm tôi lo lắng, Astorre nói, là không có sự theo dõi của cớm và FBI tại nhà thờ vào bữa làm thánh lễ. Anh em Sturzo bảo tôi rằng chúng được bảo đảm sẽ không có việc giám sát ở đó. Tôi có thể tin cớm và FBI đã biết trước về vụ mưu sát không? Có khả năng ấy không?
- Có thể, Craxxi lên tiếng. Và trong trường hợp đó cậu phải thận trọng. Đặc biệt với thằng Heskow.
Pryor lạnh lùng nói
- Astorre này, mục đích cơ bản của cậu là giữ các nhà băng và bảo vệ các con của Don Aprile. Báo thù chỉ là phụ và thậm chí, có thể bỏ đi được.
- Tôi cũng không biết nữa, Astorre lập lờ nói. Tôi còn phải nghĩ đã, chàng nở một nụ cười chân thật với cả hai lão. Nhưng còn phải xem nó tiến triển ra sao đã chứ.
Hai lão già không tin chàng ngay. Trong đời mình họ đã biết và nhận ra chân tướng những gã chíp hôi như Astorre. Họ xem chàng là hiện tượng lại tổ của các trùm Mafia thời kỳ đầu, loại người mà bản thân họ không thích hợp vì thiếu cái uy và ý chí - những phẩm chất chỉ có ở những người vĩ đại: những con người đáng kính cai quản các lãnh địa, dám coi thường luật lệ của nhà nước và chỉ biết đến chiến thắng. Họ nhận ra trong Astorre ý chí, nét quyến rũ và cả sự kiên định đó, những cái mà bản thân chàng cũng không biết. Ngay cả vẻ ngây ngô, đam mê hát hò và ngựa nghẽo cũng không làm thay đổi định mệnh của chàng. Chúng chỉ là những thú vui của tuổi trẻ và bộc lộ tấm lòng nhân hậu của chàng mà thôi.
Astorre kể cho họ nghe việc viên tổng lãnh sự Mariano Rubio và Inzio Tulippa đang cố mua các nhà băng, việc Cilke muốn sử dụng chàng để bẫy Portella. Hai lão già lắng nghe hết sức chăm chú.
- Lần tới hãy gửi chúng cho tôi. Pryor nói. Theo những nguồn tin của tôi thì Rubio là giám đốc tài chính của mạng lưới buôn bán ma tuý toàn cầu.
- Tôi sẽ không bán các nhà băng, Astorre nói. Ông Trùm đã lệnh cho tôi như vậy.
- Tất nhiên, Craxxi nói. Chúng là tương lai và có thể che chở cho cậu. Hãy để ta kể cậu nghe một mẩu chuyện. Trước lúc nghỉ hưu, ta có một người bạn, một nhà kinh doanh ngay thẳng, một niềm tự hào cho xã hội. Ông ấy mời ta tới ăn trưa tại công ty, trong phòng ăn riêng của ông ấy. Ăn xong ông ấy dẫn ta đi tham quan và chỉ cho ta thấy một ngàn chiếc máy tính được các nam nữ thanh niên vận hành. Ông ấy bảo ta
- Căn phòng kia mang về cho tôi mỗi năm một tỷ đôla. Trên đất nước này có gần ba trăm triệu người, và chúng tôi tận tâm làm cho họ mua các sản phẩm do chúng tôi làm ra. Chúng tôi chuẩn bị những xổ số, những giải thưởng và những món tiền thưởng đặc biệt, chúng tôi hứa hẹn đủ điều, tất cả đều hợp pháp để bắt họ nướng tiền vào tất cả các công ty của chúng tôi. Và ngài có biết cái gì mới là quan trọng không? Chúng tôi phải có các nhà băng. Chúng sẽ cung cấp tín dụng cho ba trăm triệu người này để họ tiêu những khoản tiền mà họ không có. Các nhà băng là chìa khoá của thành công, ngài phải nắm các nhà băng trong tay mình.
- Đúng thế, Pryors nói. Và hai bên đều có lợi. Dù lãi suất cao, nhưng những khoản nợ ấy thôi thúc họ, làm cho họ thành đạt hơn.
Astorre cười.
- Tôi mừng vì việc giữ các nhà băng là sáng suốt. Nhưng điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì. Ông Trùm Aprile bảo tôi không được bán. Với tôi thế là đủ. Và việc chúng nó giết bác ấy mới là vấn đề.
Craxxi nói với Astorre một cách cứng rắn
- Cậu không được làm hại thằng Cilke. Chính phủ bây giờ quá mạnh, thừa sức giáng trả những hành động như vậy. Nhưng ta đồng ý với cậu, trong một chừng mực nào đó, nó là một đứa nguy hiểm.
- Bước đi sắp tới của cậu là thằng Heskow, Pryor nói. Nó là nhân vật quan trọng, nhưng một lần nữa cậu phải cẩn thận. Hãy nhớ rằng, cậu có thể nhờ Don Craxxi giúp đỡ và chính tôi cũng có lực lượng. Chúng tôi không hoàn toàn về hưu. Và chúng tôi có quyền lợi trong các nhà băng – đấy là chưa kể đến lòng yêu thương của chúng tôi đối với Don Aprile, người đang yên nghỉ ở cõi vĩnh hằng.
- Ok, Astorre nói. Chúng ta có thể gặp lại sau khi tôi kiếm được thằng Heskow.
Astorre hiểu rõ tình thế nguy hiểm của mình. Chàng biết rằng thành công là rất nhỏ mặc dù chàng đã trừng phạt hai tên sát thủ. Chúng chỉ là một sợi chỉ được kéo ra từ những bí ẩn của vụ ám sát Trùm Aprile. Nhưng chàng trông cậy vào khả năng nghi ngờ cực kỳ chính xác đã ăn sâu vào chàng trong những năm học tập ở Sicily, nơi mà sự phản bội là không giới hạn. Bây giờ chàng phải hết sức thận trọng. Heskow có vẻ là một mục tiêu dễ ngắm, nhưng cũng có thể y chỉ là một cái bẫy.
Có một thứ làm chàng ngạc nhiên. Chàng đã nghĩ chàng sẽ sống hạnh phúc với một chân doanh nhân nhỏ và một ca sỹ nghiệp dư, nhưng bây giờ chàng cảm nhận thấy một niềm hoan hỷ mà trước đây chàng chưa từng biết tới. Có cảm giác rằng chàng đang quay về mọt thế giới mà ở đó chàng là một thành viên. Và rằng chàng có một sứ mệnh: Bảo vệ các con của Trùm Aprile, trả thù cho cái chết của người chàng hằng yêu quý. Chàng đơn giản chỉ phải bẻ gãy ý chí của kẻ thù. Aldo Monza đã đưa từ Sicily tới đây mười người xuất sắc. Theo chỉ thị của Astorre, hắn đã bảo đảm sinh kế cho gia đình của họ suốt đời dù bất cứ điều gì xảy đến với họ.
- Đừng có tin vào lòng biết ơn về những gì đã làm cho con người trong quá khứ, chàng nhớ ông Trùm đã dạy chàng. Cháu phải bắt họ mang ơn vì những gì cháu sẽ làm cho họ trong tương lai. Các nhà băng là tương lai của gia đình Aprile, Astorre và đội quân đang lớn mạnh của chàng. Đó là một tương lai đáng để đấu tranh bảo vệ bằng mọi giá.
Trùm Craxxi cung cấp cho chàng thêm sáu người và lão hoàn toàn chịu trách nhiệm về họ. Astorre đã biến ngôi nhà của mình thành một pháo đài với những hệ thống an ninh hiện đại nhất. Chàng đã chuẩn bị cả một ngôi nhà bí mật làm nơi “ trải nệm” phòng khi nhà chức trách muốn tóm chàng vì một lý do bất kỳ nào.
Chàng không sử dụng vệ sỹ. Thay vào đó, chàng trông cậy vào sự nhanh nhẹn của chính mình và sử dụng lực lượng bảo vệ của mình như những trinh sát trên những tuyến đường chàng sẽ đi qua.
Trước mắt chàng chưa sờ đến Heskow. Chàng lấy làm lạ về việc Cilke nổi danh như một người đáng kính, dù rằng Trùm Aprile đã mô tả về ông ta như vậy.
- Có những người đáng kính dành cả đời mình chuẩn bị cho một hành vi phản bội lớn nhất, ông Pryor đã nói thế với chàng. Nhưng bất chấp hết thảy, chàng cảm thấy tự tin. Tất cả những gì chàng sẽ phải làm là sống sót như những mẩu nhỏ trong bộ đồ xếp hình khớp lại với nhau.
Cuộc thử nghiệm thực sự sẽ đến từ những kẻ như Heskow, Portella, Tulippa và Cilke. Chàng sẽ phải đích thân nhúng tay vào máu một lần nữa.
Astorre mất cả tháng trời để tính toán một cách chính xác phải đối xử với John Heskow như thế nào. Y sẽ chết khiếp, quỷ quyệt, dễ khử nhưng khó mà moi được thông tin ở y. Dùng con trai y làm áp lực thì quá nguy hiểm – nó sẽ buộc Heskow âm mưu chống lại chàng trong khi vẫn vờ hợp tác. Chàng quyết định sẽ không để Heskow biết việc anh em Sturzo đã khai với chàng chính Heskow là tài xế trong vụ mưu sát. Điều đó có thể là y sợ mất mật.
Trong lúc đó, chàng thu thấp thông tin cần thiết về thói quen hàng ngày của Heskow. Dường như y là một kẻ ôn hoà dành hết tình cảm của mình vào việc trồng hoa rồi đem bán buôn cho những cửa hàng, thậm chí đôi khi y còn đích thân bán ở bãi đỗ xe lề đường ở Hamptons. Thú vui duy nhất của y là tới xem đội bóng rổ của con trai thi đấu. Y theo dõi lịch thi đấu của đội Villanova một cách đều đặn.
Một đêm thứ bảy của tháng Giêng Heskow dự định đi xem trận đấu giữa hai đội Villanova và Temple tại Madison Square Garden ở New York. Trước khi rời khỏi nhà y không quên bấm nút hệ thống báo động tinh xảo. Y luôn luôn thận trọng từng ly từng tý trong sinh hoạt hàng ngày, luôn luôn tin rằng y đã dự phòng rủi ro có thể. Và niềm tin của y là cái Astorre muốn dập tắt ngay khi cuộc gặp gỡ của họ vừa bắt đầu.
John Heskow lái xe vào thành phố và ăn tối một mình tại một nhà hàng Trung Hoa - gần Garden. Mỗi khi đi đây đó y luôn luôn ăn cơm Tầu vì đó là món y không thể tự nấu ngon hơn. Y thích người Trung Hoa. Họ lưu tâm đến công việc của mình, không bàn chuyện phiếm hay tỏ thái độ săn đón. Và chưa bao giờ y thấy một sai sót trong phiếu tính tiền. Y luôn kiểm tra cẩn thận vì thường gọi nhiều món ăn.
Đêm nay y đặc biệt thích món vịt Bắc Kinh, tôm nước ngọt và món sốt tôm hùm Quảng Đông. Y gọi cả một suất cơm rang, vài chiếc bánh bao nướng nhân trái cây và sườn heo tẩm gia vị. Y kết thúc bữa ăn bằng món kem trà xanh, món này phải tập mới thưởng thức được, nhưng nó chứng tỏ rằng y là người sành các món ăn Phương Đông.
Khi y đến Garden, khán đài mới kín một nửa. Y tìm chỗ ngồi ở giữa khu vực sân bóng.
Trận đấu không mấy hấp dẫn. Đội Temple đè bẹp đội Villanova, nhưng Jocko là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng trong trận đấu. Cuối cùng y quay lại phòng thay đồ.
Con trai y ôm chầm lấy y.
- Ồ ba, con rất mừng vì ba đã đến. Ba có muốn đi chơi rồi ăn với tụi con không?
Heskow rất hài lòng. Thằng con y là một đàn ông thực sự rồi. Đương nhiên lũ nhóc này đâu có muốn một anh già như y lẵng nhẵng bám theo chúng suốt đêm. Chúng muốn say sưa, chúng muốn vui vẻ, và có lẽ cả khoản tươi mát nữa.
- Cảm ơn con, Heskow nói. Ba ăn tối rồi, và ba còn phải về nhà. Đêm nay con chơi tuyệt quá. Ba tự hào về con. Cứ đi chơi đi, chúc con vui vẻ. Y hôn tạm biệt con và tự hỏi sao y lại may mắn đến thế. Ừ, con trai y có một người mẹ tốt, mặc dầu ả là một con vợ lăng loàn.