Heskow chỉ mất một tiếng đồng hồ là về đến nhà ở Brightwaters – các đại lộ ở Long Island hoàn toàn vắng ngắt vào giờ đó. Y mệt đừ khi về tới nơi, tuy nhiên trước khi vào nhà y không quên kiểm tra khu nhà trồng hoa để bảo đảm rằng nhiệt độ và độ ẩm đều tốt.
Dù kính trên mái nhà trồng hoa phản chiếu ánh trăng, nhưng những bông hoa vẫn có một vẻ đẹp hoang dã đáng sợ, hoa đỏ lại có màu đen, hoa trắng trông như những quầng hơi nước ma quái. Y thích nhìn chúng, nhất là khi y chuẩn bị đi ngủ.
Y tản bộ trên lối đi rải sỏi về nhà và mở khoá cửa. Vào trong nhà y nhanh nhẹn nhấn những con số trên tấm panô để tắt hệ thống báo động rồi đi vào phòng ngủ.
Bỗng y bủn rủn cả chân tay. Hai người đàn ông đang đợi y. Y nhận ra Astorre. Y quá hiểu cái chết và nhận ra nó trong nháy mắt. Bọn này sứ giả của thần chết đây.
Tuy nhiên y phản ứng với một phương pháp tự vệ hoàn hảo.
- Làm thế đéo nào mà hai đứa mày vào được đây, và tụi mày muốn cái quái gì hả?
- Đừng hốt hoảng, Astorre nói. Chàng tự giới thiệu, bổ xung thêm chàng là cháu của ông Trùm Aprile quá cố.
Heskow cố trấn tĩnh. Trước đây y đã từng rơi vào những tình huống khó khăn nhưng y luôn luôn bình an vô sự. Y ngồi xuống ghế xô pha nhằm mục đích để tay lên tay vịn và vươn tới chỗ giấu khẩu súng.
- Nào tụi mày muốn gì?
Trên mặt Astorre rạng rỡ nụ cười thích thú như trêu ngươi Heskow. Y đang chờ thời cơ thuận lợi. Thế rồi y bật ngón tay mở chiếc tay vịn và với lấy khẩu súng. Trong hộc rỗng không.
Đúng lúc đó ba chiếc xe hơi xuất hiện ở lối đi, đèn pha rọi vào phòng. Thêm hai người đàn ông nữa bước vào.
Astorre vui vẻ nói
- Tôi không hề đánh giá thấp anh, John ạ. Chúng tôi đã lục soát ngôi nhà. Chúng tôi tìm thấy một khẩu súng trong ấm pha cà phê, một khẩu nữa buộc dưới giường, một khẩu trong thùng thư giả, và một khẩu trong nhà tắm dưới cái chậu. Chúng tôi có bỏ sót khẩu nào không hả?
Heskow không trả lời. Tim y lại đập thình thịch. Y có thể thấy nó sắp phòi ra ngoài lồng ngực.
- Anh đang trồng cái quái gì trong khu nhà trồng hoa kia thế? Astorre cười hỏi. Cây thuốc phiện, cây gai dầu, cây cô ca, cây gì hả? Tôi đã nghĩ anh sẽ chẳng thèm bước vào nhà.
- Chấm dứt vòng vo với tao đi cho rồi, Heskow khẽ nói.
Astorre ngồi vào chiếc ghế tựa đối diện với Heskow rồi thảy hai chiếc ví hiệu Gucci - một màu vàng, một màu nâu – lên trên chiếc bàn uống cà phê giữa hai người.
- Xem đi, chàng nói.
Heskow với lấy và mở chúng ra. Cái đầu tiên đập vào mắt y là những tấm bằng lái xe của anh em Sturzo có dán ảnh của chúng. Dịch vị trào lên họng y chua lòm làm y phát buồn nôn.
- Chúng cắt đứt liên hệ với anh rồi, Astorre nói. Anh là kẻ môi giới vụ Don Aprile. Chúng còn nói anh đã bảo đảm sẽ không có sự theo dõi của NYPD và FBI tại buổi thánh lễ.
Heskow rà lại tất cả những gì đã xảy ra. Dù anh em Sturzó đã toi mạng người ta cũng không giết y được. Y cảm thấy hơi thất vọng vì sự phản bội đó. Nhưng hình như Astorre không hề biết y là kẻ lái xe. Vậy là sẽ có đàm phán, cái quan trọng nhất trong cuộc đời y.
Heskow nhún vai
- Tao không biết mày đang nói gì.
Aldo Monza vẫn cảnh giác lắng nghe, mắt dán vào Heskow. Thế rồi hắn xuống bếp và quay lại vơi hai tách cà phê đen. Hắn đưa một tách cho Astorre, tách còn lại cho Heskow. Hắn nói:
- Xem này, ông bạn có cả cà phê Italy cơ đấy – khá thật. Heskow ném cho hắn một cái nhìn khinh bỉ.
Astorre uống cà phê rồi chậm rãi nói với Heskow:
- Tôi nghe nói anh là một người thông minh, rằng đó là lý do duy nhất khiến anh chưa mất mạng. Vì vậy hãy nghe tôi và nghĩ cho kỹ. Tôi là người truy lùng tội phạm của Don Aprile. Tôi nắm tất cả các nguồn lực mà ông có trước khi về hưu. Anh biết ông ấy Aprile, anh cũng biết việc đó nói lên điều gì. Anh sẽ không đời nào dám làm kẻ môi giới, nếu ông không về hưu. Đúng thế chứ?
Heskow không trả lời. Y tiếp tục quan sát Astorre, cố gắng xét đoán chàng.
- Anh em thằng Sturzo đã tiêu rồi, Astorre tiếp tục. Anh có thể theo chân chúng. Nhưng tôi có một đề nghị, và ở đây anh phải hết sức tỉnh táo. Trong vòng ba mươi phút nữa anh sẽ phải thuyết phục được tôi rằng anh đứng về phía tôi, rằng anh sẽ hành động như người đại diện của tôi. Nếu không, anh sẽ được chôn dưới những gốc hoa trong nhà kính. Bây giờ, để tôi nói với anh những điều dễ chịu hơn. Tôi sẽ không lôi thằng con anh vào vụ này. Tôi không làm thế, hơn nữa, một hành động như thế sẽ làm anh trở thành kẻ thù của tôi và sẵn sàng phản tôi. Nhưng anh phải hiểu rằng tôi là người duy nhất giữ được tính mạng cho con trai anh. Kẻ thù của tôi muốn tôi chết. Nếu chúng thành công, bạn bè tôi sẽ không tha cho con anh. Số phận của nó gắn liền với tôi.
- Vậy cậu muốn gì? Heskow hỏi.
- Tôi cần thông tin, Astorre đáp. Anh cứ nói. Nếu tôi hài lòng thì chúng ta sẽ có một hợp đồng. Nếu tôi không hài lòng, anh sẽ chết. Vấn đề cấp bách của anh là vẫn còn sống đêm nay. Bắt đầu đi.
Heskow không mở miệng ít nhất là năm phút. Trước tiên y đánh giá Astorre - một thằng bảnh trai thế này, không hung ác hay đáng sợ. Nhưng anh em Sturzo đã ngoẻo đấy thôi. Rồi còn cả việc đột nhấp vào nhà qua hệ thống an ninh và nẫng hết súng ống nữa. Đáng ngại nhất Astorre còn chờ cho y với lấy khẩu súng không tồn tại. Thế thì đây không phải là trò hù doạ rồi, lại càng không phải là trò hù doạ mà y có thể thách thức. Cuối cùng Heskow uống hết tách cà phê và đưa ra quyết định của mình với thái độ dè dặt.
- Tôi phải đứng về phía cậu, y nói với Astorre. Tôi phải tin tưởng cậu để làm những việc đúng đắn. Người thuê tôi làm môi giới và trả tiền cho tôi là Timmona Portella. Tôi đã hối lộ để NYPD không theo dõi. Tôi là tay hòm chìa khoá của Timmona. Tôi đã trả thanh tra cảnh sát New York Di Benedetto năm trăm ngàn và cấp phó của y, Aspinella Washington, hai trăm năm mươi ngàn đô. Về sự bảo đảm của FBI, Portella bảo tôi rằng hắn chi phối được thằng cha Cilke, sếp FBI ở New York. Chính thằng Cilke đã bật đèn xanh cho vụ giết ông Trùm.
- Trước đây anh có làm việc cho Portella không?
- Ôi chao, có chứ. Hắn buôn lậu ma tuý ở New York nên có nhiều cảm tình đối với tôi. Trong liên minh của ông Trùm hắn không được mến mộ. Tôi chẳng có liên quan gì. Thế đấy.
- Tốt lắm, Astorre nói. Vẻ mặt chàng rất chân thành. Bây giờ tôi muốn anh phải cẩn thận. Vì chính quyền lợi của anh đấy. Anh còn muốn nói thêm điều gì với tôi không?
Và ngay lập tức Heskow hiểu y chỉ cách cái chết trong gang tấc. Y tin vào bản năng của mình. Y cười gượng gạo.
- Còn một việc nữa, y bổ xung. Ngay bây giờ. Tôi có một hợp đồng với Portella về cậu đấy. Tôi sẽ hối lộ nửa triệu cho hai thám tử để hạ cậu. Chúng tới tóm cậu, cậu chống lại và thế là chúng bắn cậu luôn.
Astorre có vẻ bối rối.
- Làm gì phải phức tạp và tốn kém đến thế? Chàng hỏi. Tại sao không thuê một thằng giết mướn?
Heskow lắc đầu.
- Người ta đánh giá cậu cao hơn thế. Sau cái chết của ông Trùm, một vụ giết người như thế sẽ thu hút quá nhiều sự quan tâm. Cậu là cháu ông ấy. Giới truyền thông sẽ đổ xô vào. Làm theo cách này che đậy được.
- Anh đã trả tiền cho chúng chưa?
- Chưa, Heskow trả lời. Tụi này phải gặp nhau đã.
- Được lắm, Astorre nói. Cứ tổ chức gặp gỡ mà không có hối lộ gì hết. Cho tôi biết trước chi tiết. Còn một việc nữa. Sau cuộc gặp không được đi cùng chúng.
- Chó chết, Heskow nói. Thế là thế nào hả? Ở đấy có nhiều cớm lắm.
Astorre ngã người trên ghế.
- Là thế đấy, chàng nói. Chàng đứng dậy thân tình ôm lấy Heskow. Hãy nhớ rằng, chúng ta phải giữ cho nhau được sống.
- Tôi có thể lấy đi một ít tiền không? Heskow hỏi.
Astorre cười.
- Không. Thế mới tuyệt chứ. Bọn cớm giải thích nửa triệu đô chúng có trong người ra sao hả?
- Chỉ hai mươi ngàn thôi vậy, Heskow đề nghị.
- Cũng được, Astorre hoà nhã nói. Nhưng không hơn đâu nhé. Chỉ một chút quà cáp thôi.
Lúc này tình hình rất cấp bách đòi hỏi Astorre phải gặp lại Trùm Craxxi và Pryor để lắng nghe lời khuyên của họ cho kế hoạch của chàng.
Nhưng tình hình đã thay đổi, Pryor đòi mang hai đứa cháu đến Chicago làm vệ sỹ. Và khi đến ngoại ô Chicago họ thấy điền trang hiện đại cảu Craxi đã biến thành một pháo đài. Con đường dẫn vào nhà bị những bót canh với đám tay chân hết sức côn đồ án ngữ. Một chiếc xe thông tin đỗ trong vườn cây ăn quả. Có ba gã trực cửa điện thoại đồng thời kiểm tra thẻ thông hành của khách.
Eric và Roberto, hai đứa Pryor gọi bằng cháu, là những gã trai chắc nịch và cường tráng, chuyên gia trong lĩnh vực vũ khí và rất mực tôn sùng bác mình. Họ hình như cũng biết chuyện của Astorre ở Sicily và tỏ ra rất kính nể chàng, làm giúp chàng từ những việc nhỏ nhất. Họ mang hành lý của chàng lên máy bay, rót rượu cho chàng trong bữa tối, họ trả khoản tiền boa và mở cửa cho chàng để chàng hiểu họ coi chàng là một người vĩ đại. Astorrre cố làm cho cả hai thoải mái, nhưng họ không lần nào tỏ ra quá trớn.
Những người bảo vệ Trùm Craxxi không lịch sự được như vậy. Chúng là những kẻ nhã nhặn nhưng cứng nhắc, hoàn toàn tập trung vào công việc của mình. Và tất cả đều mang vũ khí.
Tối hôm đó, khi Trùm Craxxi, Pryor và Astorre đã dùng xong bữa và đang ăn tría cây tráng miệng, Astorre hỏi Craxxi
- Tại sao an ninh lại nghiêm ngặt thế này?
- Chỉ để phòng xa thôi, chủ nhà thản nhiên trả lời. Ta đã nghe một số tin đáng lo ngại. Kẻ thù cũ của ta, thằng Inzio Tulippa đã đến Hoa Kỳ. Nó là đứa tham lam, và rất ẩu, vì thế cứ chuẩn bị sẵn là thượng sách. Nó đến để họp bàn với ông bạn Timmona Portella của chúng ta. Chúng phân chia lợi nhuận từ ma tuý và triệt phá kẻ thù của chúng. Tốt nhất là phải sẵn sàng. Nhưng lúc này cậu đang nghĩ gì, hả Astorre?
Astorre trình bày với cả hai những thông tin chàng đã nghe được và việc chàng đã xoay chuyển Heskow. Chàng kể cho họ về Portella, Cilke và hai thám tử.
- Bây giờ tôi phải hành động, chàng nói. Tôi cần một chuyên gia đánh bom và ít nhất mười người xuất sắc. Tôi biết cả hai ngài đều có thể giúp tôi. Song.... Chàng cẩn thận gọt vỏ quả lê màu vàng hơi xanh chàng đang ăn. Các ngài hiểu việc này sẽ nguy hiểm ra sao và tôi không muốn liên quan quá nhiều.
- Nhảm nhí, ông Pryor nóng này nói. Chúng tôi có được cuộc sống thế này là nhờ Don Aprile. Tất nhiên chúng tôi sẽ giúp. Nhưng hãy nhớ rằng, đây không phải là cuộc trả thù. Đây là vấn đề tự vệ. Vì vậy cậu không được làm hại Cilke. Chính phủ Liên bang sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta vô cùng khốn đón đấy.
- Nhưng thằng đó phải bị dằn mặt, Trùm Craxxi nói. Nó sẽ luôn luôn là một mối nguy hiểm. Tuy nhiên, phải căn nhắc việc này. Cứ bán quách các nhà băng và tất cả mọi người đều vui vẻ.
- Tất cả mọi người trừ tôi và người nhà của tôi. Astorre nói.
- Đó là cái phải cân nhắc, ông Pryor lên tiếng. Tôi sẵn sàng hy sinh cổ phần của mình tại nhà băng cùng Don Craxxi, dù tôi thừa biết nó sẽ trở thành một gia sản lớn. Nhưng điều quan trọng vẫn là một cuộc sống yên bình.
- Tôi không bán các nhà băng, Astorre nói. Chúng đã giết bác tôi thì chúng phải trả giá, chúng không thể đạt được mục đích. Tôi không thể sống trong một thế giới, nơi vị trí của tôi được ban cho bởi lòng nhân từ của thiên hạ. Bác tôi đã dạy tôi điều đó.
Astorre ngạc nhiên, quyết định của chàng đã làm cho Trùm Craxxi và Pryor trông dễ chịu hẳn ra. Họ cố giấu nụ cười. Chàng nhận ra rằng hai lão già này, dù đang ở đỉnh cao quyền lực, đều trọng nể chàng, họ nhận thấy ở chàng những cái họ không thể nào có được.
Craxxi nói,
- Bọn ta biết bổn phận của cậu đối với Don Aprile, cầu cho hương hồn ông ấy được an nghỉ và bọn ta cũng biết bổn phận của mình đối với cậu. Nhưng lưu ý điều này : Nếu cậu hấp tấp, và nếu có chuyện gì xảy ra với cậu thì bọn ta buộc lòng phải bán các nhà băng.
- Phải đấy, ông Pryor nói. Phải thận trọng.
Họ tiếp tục bữa tráng miệng. Trùm Craxxi hình như chìm trong suy nghĩ. Sau đó lão nói
- Tulippa là trùm ma tuý thế giới. Portella là bạn hàng của nó. Chúng cần phải có nhà băng để rửa tiền.
- Vậy thì làm sao Cilke nhập bọn với chúng được?
- Ta không biết, Craxxi nói. Mặc dù vậy, cậu không được hại Cilke.
- Làm như thế sẽ là một thảm hoạ, Pryor phụ hoạ.
- Tôi sẽ ghi nhớ điều đó, Astorre nói.
Nhưng nếu Cilke thực sự có tội thì chàng còn có thể làm gì?
Trước khi đưa con đi ngủ thám tử Aspinella Washington phải biết chắc rằng đứa con gái tám tuổi của mình đã ăn khuya, đã làm bài tập về nhà và cầu nguyện. Mụ rất mực yêu thương con và từ lây đã đẩy người cha ra khỏi cuộc đời cô bé. Cô giữ trẻ, con gái một cớm mặc đồng phục, tới nàh lúc 8 giờ tối. Aspinella hướng dẫn cô cách sử dụng thuốc cho con gái mình và nói mụ sẽ quay về trước nửa đêm.
Sau đó chuông báo hiệu ngoài cổng vang lên và Aspinella chạy xuống cầu thang. Mụ chẳng bao giờ sử dụng thang máy. Paul Di Benedetto đang đợi trong chiếc Chevrolet không mác màu nâu vàng. Mụ nhảy lên xe và buộc dây an toàn. Y là một tài xế đêm mệt mỏi.
Di Beneletto đang hút một điếu xì gà dài nên Aspinella mở cửa kính.
- Đi cỡ một tiếng đấy, y nói. Chúng ta phải nghĩ lại việc này. Y biết đây là một bước nhảy dài cho cả hai. Việc đầu tiên là nhận lấy khoản hối lộ và tiền buôn bán ma tuý, việc thứ hai là thực hiện một vụ giết người.
- Sao lại phải nghĩ lại? Aspinella hỏi. Chúng ta nhận nửa triệu để hạ một thằng đáng phải nằm trong biệt giam tử tội. Anh biết tôi có thể làm gì với một phần tư triệu chứ?
- Không, Di Benedetto nói. Nhưng tôi biết tôi có thể làm gì. Khi về hưu, tôi sẽ mua một toà nhà thật oách ở Miami. Nhớ rằng, chúng ta sẽ phải chịu đựng việc này đấy.
- Nhận hối lộ từ ma tuý giống như đi trên dây vậy. Aspinella nói. Tiên sư chúng nó.
- Đúng thế, Di Benedetto tán thành. Chúng ta phải kiểm tra xem thằng Heskow có mang tiền theo đêm nay không, Phải bảo đảm rằng nó không cho chúng ta leo cây.
- Nó luôn luôn đáng tin cậy, Aspinella nói. Nó là ông già Noel của tôi mà. Nếu nó không có một bọc tiền lớn thì nó sẽ là một ông già chết.
Di Benedetto cười ngất.
- Cưng ơi, cô đang bám theo thằng Astorre vậy mà cô có thể tống khứ nó đi ngay vậy sao?
- Vâng. Tôi đã đặt thằng Astorre dưới sự giám sát rồi. Tôi biết kho macaroni là nơi có thể tóm được nó. Đêm nào nó cũng làm việc rất khuya.
- Cô đã có tang vật để gài nó rồi à? Di Benedetto hỏi.
- Tất nhiên, Aspinella đáp. Nếu nó không mang theo tang vật tôi cũng chẳng thèm quan tâm.
Họ đi trong im lặng cỡ mười phút. Sau đó Di Benedetto thản nhiên hỏi
- Ai sẽ bắn.
Aspinella ném cho y một cái nhìn thích thú.
- Ồ Paul, anh đã mài đũng quần vào bàn giấy suốt mười năm qua. Anh đã thấy sốt cà chua nhiều hơn máu. Tôi sẽ bắn. Mụ có thể thấy y thờ phào nhẹ nhõm. Đàn ông chỉ là một lũ chó dái vô dụng.
Một lần nữa họ rơi vào im lặng. Cả hai mải suy nghĩ về những gì đã đưa đẩy họ đến bước ngoặt này của cuộc đời. Ba mươi năm trước, khi còn là một thanh niên, Di Benedetto đã gia nhập lực lượng cảnh sát. Sự tha hoá của y diễn ra từ từ không cách gì tránh nổi. Y khởi sự bằng những ảo tưởng về mình, y sẽ được kính trọng và ngưỡng mộ vì dám hy sinh cả cuộc đời mình để bảo vệ mọi người. Nhưng rồi thời gian đã làm phai mờ điều đó. Đầu tiên là những khoản lót tay của những kẻ bán hàng rong trên đường phố và những cửa hiệu nhỏ. Tiếp đó là vụ giúp một gã thoát khỏi trọng tội. Đó dường như là một bước nhỏ dẫn đến việc nhận tiền của những kẻ buôn bán ma tuý cỡ bự. Cuối cùng là của Heskow, kẻ rõ ràng đại diện cho Timmona Portella, trùm Mafia lớn nhất còn lại ở New York.
Đương nhiên, luôn luôn hiện hữu một lý do bào chữa thuyết phục. Con người ta có thể nhận mọi thứ hối lộ. Y thấy những quan chức cấp cao đang trở nên giàu có abừng tiền lại quả của những vi phạm buôn bán ma tuý, và những viên chức thấp hơn thậm chí còn hủ bại hơn, cuối cùng, y còn phải lo cho ba đứa con ăn học lên đại học. Nhưng trên hết vẫn là thái độ vô ơn của những người mà y bảo vệ. Các nhóm tự do cá nhân sẽ phản đối hành vi tàn bạo của cảnh sát nếu anh tẩn một tên buôn lậu da đen ở nơi này hay nơi khác. Giới truyền thông sẽ ỉa vào đồn cảnh sát mỗi khi có cơ hội. Dân chúng kiện cáo cả cớm. Cớm thì bị thải hồi sau nhiều năm phục vụ, bị cúp cả lương hưu, thậm chí còn ra toà. Bản thân y đã mọt lần phải ra toà rồi bị kỷ luật vì bị buộc tội đã tách riêng các tội phạm da đen. Y biết y không có thành kiến về vấn đề chủng tộc. Có phải đấy là lỗi của y khi hầy hết tội ở New York là dân da đen? Lẽ ra người ta phải làm gì - cấp cho chúng giấy phép đi ăn cắp như biện pháp giúp đỡ những người bị thiệt thòi hay bị đối xử bất công chắc? Y đã cất nhắc đám cớm da đen. Ở cơ quan y là cố vấn của Aspinella, tạo điều kiện để mụ thăng tiến bằng việc gieo kinh hoàng cho những tên tội phàm cùng màu da với mụ. Và người ta không thể khép mụ vào tội phân biệt chủng tộc. Nói tóm lại, xã hội ỉa vào cớm, những người bảo vệ họ. Tất nhiên, trừ phi họ bị giết khi đang thi hành công vụ. Làm một cớm trung thực chẳng được lợi lộc gì. Tuy nhiên, y không hề nghĩ việc này sẽ dẫn đến tội giết người. Xét cho cùng, y vẫn an toàn, ở đây chẳng có mạo hiểm, ở đây có rất nhiều tiền, và nạn nhân lại là kẻ giết người. Nhưng dù sao...
Aspinella cũng đang tự hỏi bẳng cách nào cuộc sống của mụ lại đi đến một tình trạng rối beng như vậy. Có Chúa chứng giám, mụ đã đấu tranh chống lại thế giới ngầm với một niềm say mê và nghiêm khắc, những phẩm chất đã làm mụ trở thành một huyền thoại của New York. Chắc chắn mụ đã nhận những khoản tiền hối lộ. Mụ chỉ bắt đầu cuộc chơi muộn hơn, khi Di Benedetto thuyết phục mụ nhận tiền buôn bán ma tuý. Đã nhiều năm nay y là cố vấn của mụ và vài tháng nay kiêm luôn cả người tình – không đến nỗi tồi, chỉ như một con gấu vụng về sử dụng tình dục như một phần của động cơ ngủ đông.
Nhưng sự tha hoá của mụ thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày làm việc đầu tiên sau khi được giới thiệu làm thám tử. Tại phòng giải trí của đồn, một cớm da trắng có tính độc đoán tên là Gangee đã vui vẻ cợt nhả với mụ.
- Này, Aspinella, gã nói. Với cái trôn của cô và cơ bắp của tôi, chúng ta sẽ quét sạch tội ác trong thế giới văn minh đấy. Đám cớm, trong đó có vài đứa da đen phá lên cười.
Aspinella nhìn gã lạnh lùng và nói
- Anh sẽ không bao giờ là bồ của tôi. Một thằng đàn ông dám xúc phạm một phụ nữ chỉ là một thằng bé dái.
Gangee cố giữ vẻ thân mật.
- Cái nhỏ bé của thằng này có thể lấp đầy cái trôn khổng lồ của cô bất cứ khi nào cô muốn thử. Còn tôi dù sao tôi cũng muốn thử vận may của mình.
Aspinella ngoảnh cái mặt lạnh tanh của mụ về phía gã
- Da đen còn hơn một thằng hèn, mụ nói. Đi mà thủ dâm, người đâu mà đần như cứt.
Cả phòng dường như chết điếng bởi ngạc nhiên. Mụ đã làm Gangee đỏ mặt. Một thái độ coi thường độc địa như vậy thể nào cũng dẫn tới ẩu đả. Gã tiến về phía mụ, thân hình lực lưỡng của gã đang vượt qua khoảng trống.
Aspinella mặc đồng phục. Mụ rút súng nhưng không chĩa vào gã.
- Cứ thử xem, rồi tao sẽ thổi bay hai hòn dái của mày, mụ nói, và trong phòng không ai dám nghi ngờ mụ sẽ bóp cò. Grangee dừng lại và lắc đầu ghê tởm.
Vụ xô xát, tất nhiên được báo cáo. Về phần Aspinella, đấy là một hành động phạm luật nghiêm trọng. Nhưng Di Benedetto đủ khôn ngoan để biết rằng một cuộc kiểm tra của ngành sẽ là một thảm hoạ chính trị đối với NYPD. Y dập tắt toàn bộ sự việc và có ấn tượng với Aspinella đến nỗi y điều mụ về nhóm của mình và trở thành cố vấn của mụ.
Việc có ít nhất ba cớm da đen ở trong phòng và không một ai trong số họ đứng lên bảo vệ mụ đã tác động đến mụ nhiều hơn bất cứ điều gì. Thực vậy, họ cười cợt với những trò đùa của tên cớm da trắng. Mối liên kết về giới mạnh hơn mối liên kết về chủng tộc.
Sau đó việc làm của mụ đã chứng mimh rằng mụ là một cớm cừ nhất trong đơn vị. Mụ thẳng tay với bọn buôn bán ma tuý, buôn lậu, cướp có vũ trang. Mụ không dung tha cho chúng, dù là da trắng hay da đen. Mụ bắn chúng, nện chúng, sỉ nhục chúng. Những lời buộc tội được đưa ra chống lại mụ nhưng chẳng ăn thua gì và công trạng của mụ đã biện minh cho mụ. Tuy nhiên những lời buộc tội đã khơi ngòi cho cơn thịnh nộ của mụ chống lại chính xã hội. Làm sao người ta dám chất vấn mụ khi mụ bảo vệ họ khỏi đám cặn bã xấu xa nhất trong thành phố? Di Benedetto ủng hộ mụ hoàn toàn.
Có một tình huống tế nhị khi mụ bắn chết hai thằng choai choai trấn lột mụ trên phố Harlem sáng trưng, ngay bên ngoài căn hộ của mụ. Một thằng đấm vào mặt mụ, còn thằng kia giật lấy cái ví của mụ. Aspinella rút súng và hai thằng nhãi sợ chết khiếp. Rất từ từ mụ bắn cả hai đứa. Không chỉ vì một cú đấm vào mặt, mà còn để gửi một lời cảnh cáo không được giở trò trấn lột trong khu vực nhà mụ. Các nhóm đòi quyền tự do dân sự tổ chức một cuộc phản đối, nhưng Sở phán quyết rằng mụ đã sử dụng sức mạnh hợp pháp.
Chính Di Benedetto đã thuyết phục mụ nhận khoản hối lộ đầu tiên về một hợp đồng mà tuý rất quan trọng. Y thân mật như một ông chú đáng yêu.
- Aspinella, y nói, ngày nay cớm đếch phải lo lắng nhiều về hòn tên mũi đạn. Nhưng phải dè chừng các nhóm đòi quyền tự do dân sự, các công dân và lũ tội phạm đòi bồi thường thiệt hại. Phải dè chừng các thủ lĩnh chính trị trong ngành, họ sẵn sàng lôi cô ra trước vành móng ngựa để hốt phiếu bầu. Cô chỉ là một nạn nhân bình thường liệu cô có chấp nhận kết cục như đám con nghiện đáng thương trên đường phố, những kể chuyên hiếp dâm, cướp bóc và trấn lột hay không? Hay cô sẽ tự bảo vệ mình? Vậy thì làm tới đi. Cô sẽ nhận được sự che chở nhiều hơn từ những nhân vật có thế lực trong ngành, những người đã bị mua đứt. Sau năm sáu năm nữa cô có thể về hưu với một đống tiền. Và cô sẽ chẳng phải lo lắng về việc phải ra toà vì tội làm rối vài sợi tóc của một thằng trấn lột.
Vậy là mụ đã được đưa đường chỉ lối. Dần dần mụ say mê với việc gửi tiền hối lộ vào những tài khoản bí mật. Những cũng không vì thế mụ thả lỏng đám tội phạm.
Nhưng vụ này thì khác. Đây là một vụ giết người. Astorre là một thành viên quan trọng của Mafia đáng bị loại bỏ. Thật khôi hài, lúc đó mụ đang thi hành công vụ. Tuy nhiên vụ này ít rủi ro mà thù lao lại hậu hĩnh. Một phần tư triệu cơ mà.
Di Benedetto lái xe rời đại lộ Southem State và ít phút sau y dừng lại tại bãi đỗ xe của một khu buôn bán. Tất cả các gian hàng đã đóng cửa, kể cả tiệm bánh pizza phô trương bảng quảng cáo bằng ánh đèn nêông đỏ nơi cửa sổ. Cả hai bước xuống xe.
- Đây là lần đầu tiên tôi thấy một hiệu bánh pizza đóng cửa sớm như vậy, Di Benedetto nói. Mới có 10 giờ đêm.
Y dẫn Aspinella đến cửa ngách của tiệm bánh pizza. Cửa không khoá. Họ leo lên mười hai nhịp cầu thang. Ở đó có một căn hộ hai phòng ở bên tay trái và một phòng ở bên tay phải. Y làm hiệu, và Aspinella kiểm tra căn hộ bên tay trái trong khi y đứng gác. Sau đó họ bước vào căn phòng bên tay phải. Heskow đang chờ họ.
Heskow đang ngồi ở cuối một chiếc bàn gỗ dài với bốn chiếc ghế gỗ ọp ẹp vây quanh. Trên bàn có một chiếc túi vải len mịn kích thước bằng một bao cát tập đấm và có vẻ đầy ự. Heskow bắt tay Di Benedetto và gật đầu chào Aspinella. Mụ nghĩ mụ chưa từng thấy một người da trắng nào nom trắng như vậy.
Căn phòng chỉ có một bóng đèn tròn lờ mờ và không cửa sổ. Họ ngồi quanh bàn, Di Benedetto chồm lên vỗ vỗ vào cái túi.
- Đủ cả chứ? Y hỏi.
- Nhất định rồi. Heskow run rẩy trả lời. Ừ, một kẻ mang tới 500000 đô trong một chiếc túi vải len căng thẳng cũng phải thôi, Aspinella nghĩ. Tuy nhiên mụ vẫn quan sát căn phòng xem nó có bị đặt máy nghe trộm hay không.
- Cho xem thử, Di Benedetto đề nghị.
Heskow nới lỏng sợi dậy buộc quanh miệng túi và đổ ra một nửa. Khoảng hai mươi bó tiền được cột bằng dây cao su trút lên bàn.
Hầu hết là các bó tiền một trăm đô, không có loại năm mươi đô và hai bó tiền hai mươi đô.
Di Benedetto thở dài.
- Đ. mẹ những tờ hai mươi đô. Y nói. Thôi được, bỏ chúng vào túi.
Heskow bỏ những cọc tiền vào túi rồi cột lại sợi dây.
- Khách hàng của tôi đề nghị vụ này phải làm càng nhanh càng tốt.
- Trong vòng hai tuần, Di Benedetto nói.
- Tốt, Heskow tán thành.
Aspinella đeo chiếc túi lên vai. Nó không nặng đến thế, mụ nghĩ. Nửa triệu đô đâu có nặng như thế này.
Mụ nhìn Di Benedetto bắt tay Heskow và cảm thấy bồn chồn. Mụ muốn chuồn khỏi nơi này. Mụ bắt đầu xuống thang, chiếc túi nằm ngay ngắn nơi vai mụ, mụ giữ nó bằng một tay còn tay kia bỏ không để còn rút súng. Mụ nghe thấy Di Benedetto theo sát phía sau.
Lát sau họ bước vào màn đêm mát lạnh. Cả hai ướt đẫm mồ hôi.
- Bỏ chiếc túi lên thùng xe, Di Benedetto nói. Y ngồi vào sau tay lái và châm thuốc. Aspinella đi một vòng rồi cũng lên xe.
- Mình đi đâu để chia chứ? Di Benedetto hỏi.
- Không đến chỗ tôi được. Ở đấy còn cô giữ trẻ.
- Cũng không đến chỗ tôi được, Di Benedetto nói. Mụ vợ tôi đang ở nhà. Hay chúng mình thuê một phòng khách sạn? Aspinella nhăn nhó và Di Benedetto bỗng nói
- Đến văn phòng của tôi. Chúng mình sẽ đóng cửa lại. Cả hai phì cười.
- Kiểm tra lại thùng xe một lần nữa đi. Phải bảo đảm nó đã được khoá chặt.
Aspinella không cãi lại. Mụ xuống xe, mở nắp thùng xe và lôi cái túi ra. Đúng lúc đó Paul bật công tắc điện.
Vụ nổ vãi ra một cơn mưa mảnh thuỷ tinh lên khắp dãy phố buôn bán. Chiếc xe dường như trôi lơ lửng trong không khí rồi rơi xuống đè bẹp thi thể của Paul Di Benedetto. Aspinella bị thổi văng ra xa mười bộ, một chân và một tay bị gãy. Một cơn đau xé ruột từ bên mắt bị rách làm mụ ngất đi.
Heskow đang đi phía sau cửa hiệu bánh pizza chợt cảm thấy một luồng không khí ép y vào toà nhà. Rồi y nhảy lên xe và hai mươi phút sau đã về tới nhà ở Brightwaters. Y thưởng cho mình một ly rượu rồi kiểm tra lại hai bó tiền toàn tờ một trăm đô la mà y đã lấy từ chiếc túi. Bó mươi nghìn đô - một món tiền thưởng xinh xắn. Y sẽ cho thằng con y vài nghìn tiêu vặt. Mà không, chỉ cho nó một nghìn thôi. Chỗ còn lại sẽ gửi vào một nơi an toàn.
Y xem bản tin khuya trên T.V có tường thuật một vụ nổ. Một thám tử bị giết, người còn lại bị thương nặng. Tại hiện trường có một túi vải len đựng rất nhiều tiền. Phóng viên của đài truyền hình không nói là bao nhiêu.
Hai ngày sau Aspinella Washington hồi tỉnh trong bệnh viện và mụ không hề ngạc nhiên khi bị hỏi rất tỉ mỉ về túi tiền và tại sao chỉ thiếu bốn mươi ngàn trong số nửa triệu đôla. Mụ không nhận là có biết về số tiền. Người ta hỏi mụ rằng ngài thanh tra và trợ lý của ông ta làm gì cùng nhau. Mụ từ chối trả lời với lý do đó là vấn đề cá nhân. Nhưng mụ nổi cơn tam bành trước câu hỏi mụ đã rơi vào hoàn cảnh nghiêm trọng như vậy từ khi nào. Sở cũng không hề đếm xỉa gì tới mụ. Họ chẳng hề biểu dương những thành công của mụ. Tuy nhiên mọi việc cũng kết thúc êm đẹp. Sở không theo đuổi vụ này và làm mọi cách để cho cuộc điều tra về túi tiền không đi đến đâu.
Mất thêm một tuần lễ hồi phục nữa Aspinella mới nghĩ kỹ được mọi chuyện. Họ đã bị lừa. Và kẻ duy nhất có thể lừa được họ chính là Heskow. Và bốn mươi ngàn đôla biến mất khỏi khoản tiền hối lộ nói lên rằng con lợn tham lam này không thể nào cưỡng nổi việc ăn chặn của chính người của y. Rồi mụ sẽ bình phục, mụ nghĩ vậy, rồi mụ sẽ còn gặp lại Heskow một lần nữa.