sau cơn mưa là nắng

Chương 13: Nơi ánh sáng ở lại


trước sau
Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.

Buổi sáng hôm đó, tôi tỉnh dậy trước tiếng gió luồn qua khe cửa khách sạn. Seoul đầu đông, trời trong và nắng mỏng như một lớp khăn voan. Tôi pha một ly cà phê gói mang theo từ Singapore, mùi thơm quen len qua bậu cửa, hòa vào mùi lạnh của thành phố xa lạ. Cửa sổ phòng tôi nhìn ra một hàng cây đã rụng gần hết lá; những chiếc lá còn sót lại bập bềnh trong nắng, trông như những cánh thư chưa gửi.

Tôi nhắn cho anh:

“Tôi ra bờ sông trước nhé.”

Anh trả lời gần như ngay lập tức:

“Tôi đang trên đường. Đừng uống hết nắng trước khi tôi đến.”

Tôi cười thành tiếng. Hai năm không gặp, chúng tôi nói chuyện dễ như thể mới là hôm qua. Không còn những câu hỏi thừa. Cũng không còn những khoảng lặng gượng gạo. Giữa chúng tôi, mọi thứ như một bản nhạc đã tập rất lâu, giờ chỉ cần đưa tay là chơi được đúng nốt.

Bờ sông Hàn buổi sáng vắng người. Những chiếc xe đạp hiếm hoi lướt qua để lại vệt gió. Tôi ngồi lên bậc đá, đặt máy ảnh cạnh bên. Nắng bàng bạc rải lên mặt nước, kéo một dải sáng dài như con đường không có đích.

Anh xuất hiện từ phía con dốc, áo măng-tô xám tro, khăn quàng vải dày và đôi giày đã cũ. Tôi nhận ra ngay chiếc đồng hồ trầy xước trên tay anh, thứ từng đi qua rất nhiều ca trực đêm và những cơn mưa.

“Cô đến sớm,” anh nói, ngồi xuống bên tôi.

“Tôi sợ lỡ ánh sáng.”

“Còn tôi sợ lỡ cô.”

Chúng tôi im lặng một lúc. Tôi nghe tiếng nước vỗ vào bờ, rất nhỏ. Anh rót từ chiếc bình giữ nhiệt ra hai ly cà phê đen. Hơi khói mỏng bốc lên, bắt lấy nắng.

“Cà phê nắng,” anh cười, “bản pha Seoul.”

“Tôi tưởng anh chỉ biết pha cà phê mưa.”

“Tôi đã học thêm,” anh nói, mắt nhìn thẳng, “vì có người bảo sẽ đến để thử.”

Tôi bưng cốc, nhấp ngụm đầu. Đắng ngắn, ngọt dài. Lúc đặt cốc xuống, tôi mới nhận ra tay mình đã thôi run từ lúc nào.

“Đi đâu hôm nay?” tôi hỏi.

“Đi một ngày vừa đủ,” anh đáp. “Buổi sáng sông Hàn, trưa lên tàu ra ngoại ô, chiều ghé một quán cà phê nắng vàng. Tối về lại bến sông, nếu trời mưa, tôi sẽ che ô. Nếu trời nắng, tôi sẽ không che gì cả.”

“Được,” tôi nói, như đã chờ sẵn lịch trình đó trong lòng.

Chúng tôi đạp hai chiếc xe thuê dọc bờ sông, gió lùa qua tai để lại âm thanh mỏng như sợi chỉ. Mỗi đoạn đường, anh đều chậm lại để tôi chụp. Tôi chụp đôi vợ chồng già đang buộc khăn cho nhau, chụp một cậu bé lật tung chiếc lá đã khô, chụp một chú chó đen nằm phơi nắng bên chủ.

“Anh có nhớ bệnh viện không?” tôi hỏi khi dừng nghỉ.

“Nhớ chứ,” anh nói. “Nhưng tôi đã học cách về nhà mà không mang mùi thuốc theo.”

“Còn tôi thì đã học cách cầm máy mà không giấu mình đằng sau ống kính.”

Chúng tôi nhìn nhau. Không ai nói thêm, nhưng tôi biết, anh hiểu hết.

Tàu ngoại ô rời ga chậm rãi như một hơi thở. Qua cửa kính, những khu phố lùi lại, nhường chỗ cho đồng cỏ, nhà thấp, và những vệt núi xa. Trên tàu, người ta nói chuyện bằng thứ tiếng tôi chưa hiểu trọn, nhưng giọng ấm đến mức không cần dịch.

“Cô còn giữ bức ảnh tôi chụp ngày mưa ở Sài Gòn không?” anh hỏi.

“Tôi đem theo,” tôi chạm vào ví.

“Tôi nghĩ hôm nay, chúng ta sẽ chụp lại một bức giống thế, nhưng đổi vai,” anh nói. “Cô cầm ô cho tôi.”

Tôi bật cười. “Nếu không mưa thì sao?”

“Thì cô cầm nắng.”

Ga nhỏ ở ngoại ô thanh vắng. Trời xanh trong đến mức có thể nghe tiếng ánh sáng rơi. Chúng tôi đi bộ qua một con đường dốc đến khu làng gỗ mà anh bảo “rất hợp nắng.” Những bức tường trắng cao không che hết được vườn sau; trên dây phơi có khăn tay, áo sơ mi, và một chiếc váy ai đó giặt từ đêm, giờ khô nửa.

Quán cà phê anh chọn có cửa kính lớn, bàn gỗ sáng, và một kệ sách thấp. Tên quán là “Soleil,” nghĩa là mặt trời. Bà chủ quán người nhỏ, đeo tạp dề màu be, nói câu chào nhẹ như lông chim.

“Tôi mượn ở đây vài bức tường,” anh nói, chỉ.

“Tường để làm gì?”

“Để cô tựa.”

Anh gọi cho tôi một ly latte nóng, cho mình americano. Khi ly latte đặt xuống, bọt sữa vẽ thành hình lá. “Họ biết nghề,” tôi nói. “Hoặc biết chuyện của mình,” anh đáp.

Chúng tôi nói chuyện về những năm đã qua. Anh kể những chuyến đi vùng sâu nơi mùa đông lạnh đến nỗi nước mắt đóng lại thành mùi muối. Tôi kể những buổi sáng Singapore, khi nắng vào đến tận bếp và những chậu cây tôi không còn quên tưới nữa. Anh bảo hồi đầu sang Seoul, mỗi tối anh đều đi bộ qua một cây cầu, đứng giữa cầu và nhìn thẳng về hướng nam. “Chẳng có gì ở đó cả,” anh cười, “nhưng nghĩ rằng có ai đó cũng đang đi bộ ở một hướng ngược lại là đủ rồi.”

Tôi hỏi: “Anh đã thôi đếm những ngày không có tôi chưa?”

“Rồi,” anh nói. “Vì tôi bắt đầu đếm những ngày có tôi.”

Tôi im lâu, thấy trong ngực có gì đó tỏa ấm. Từ một thời điểm nào đó, chúng tôi thôi nói về thiếu và bắt đầu nói về đủ.

Sau bữa trưa, anh dẫn tôi đến một hiệu ảnh nhỏ. Biển gỗ treo trước cửa viết tay: “Chụp lấy ngay.” Bên trong, tường treo đầy ảnh cũ, có những cái mờ, có những cái cháy sáng, nhưng bức nào cũng có người đang cười.

“Chụp một tấm nhé?” anh nói.

“Chụp đi.”

Máy phim kêu “xoạch” một tiếng gọn. Hai chúng tôi đứng sát vào nhau vừa đủ, tôi hơi nghiêng vai. Người chủ quán nhắc: “Đừng nhìn máy quá lâu. Nhìn nhau lâu hơn.” Tôi và anh cùng bật cười. Khi tấm ảnh in ra, góc phải bìa có dòng chữ đóng dấu: Sun after rain.

“Treo ở đâu?” tôi hỏi.

“Ở nơi cô có thể thấy trước khi ra khỏi nhà,” anh nói.

Tôi định nói “tôi không biết nhà mình ở đâu.” Nhưng anh đã nhìn tôi, điềm tĩnh. “Nhà là nơi ánh sáng ở lại,” anh nói. “Chúng ta tìm sau.”


trước sau
Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.
Truyện
Đề Cử
×