Chưa đến bảy rưỡi, tôi đã rung chuông cửa Biệt thự Fernly. Cửa mở, quản gia Parker đon đả đón tôi bằng vẻ trịnh trọng giả tạo. Do không khí buổi tối nay thật thoáng đãng, nên tôi đã chọn cách đi bộ đến biệt thự. Tôi bước vào đại sảnh vuông rộng thênh thang và Parker giúp cởi áo khoác cho tôi. Ngay lúc đó, thư ký của ông Ackroyd, một anh bạn trẻ nhã nhặn tên Raymond rảo bước qua sảnh đến phòng làm việc của ông Ackroyd, tay anh ôm đủ loại giấy tờ.
“Chào buổi tối, bác sĩ. Ông đến ăn tối sao? Hay là đến khám?” Ý sau hẳn anh ta ám chỉ chiếc túi đen tôi mới đặt lên chiếc tủ gỗ sồi.
Tôi giải thích là để phòng hờ lỡ bất chợt có ai gọi báo có ca sinh nở hay cấp cứu nào đó. Raymond gật đầu rồi đi làm tiếp việc của mình, nói to qua vai, “Đi thẳng vào phòng tiếp khách nhé. Ông biết đường mà. Quý bà và quý cô sẽ xuống ngay bây giờ đấy. Tôi phải đem những giấy tờ này cho ông Ackroyd, tôi sẽ báo luôn với ông ấy là ông đã đến.”
Ông Parker đã rút đi nơi khác từ khi Raymond xuất hiện, vậy nên tôi còn có một mình giữa sảnh. Tôi chỉnh lại cà vạt, liếc vào chiếc gương lớn treo phía đối diện trong phòng, đó cũng chính là cửa vào phòng tiếp khách.
Tôi để ý thấy ngay khi mình vừa xoay tay cầm cánh cửa, trong phòng bỗng vang lên một tiếng động mà tôi đoán là tiếng đóng cửa sổ. Phải nói là tôi chỉ vô tình chú ý thấy chi tiết này theo thói quen, chứ không hề nghĩ nó có ý nghĩa gì lúc ấy.
Tôi mở cửa bước vào trong. Đúng lúc ấy, cô Russell cũng vừa bước ra. Cả hai cùng vội xin lỗi.
Đây là lần đầu tiên tôi có dịp nhìn cận mặt cô quản gia, lòng thầm nghĩ hẳn ngày xưa cô phải đẹp lắm, mà thực ra thời đó vẫn chưa qua. Tóc cô đen nhánh một màu, và khi gương mặt cô ửng hồng như lúc này đây, vẻ lạnh lùng thường thấy dường như cũng tan dần đi.
Chợt trong đầu tôi tự hỏi liệu có phải cô Russell mới ở bên ngoài về không, vì cô đang thở hổn hển như người mới chạy vội về.
“Hình như tôi đến hơi sớm.” Tôi nói.
“Ồ! Tôi không cho là vậy. Giờ đã hơn bảy rưỡi rồi, bác sĩ Sheppard ạ.” Cô ngừng lại một chút rồi tiếp. “Tôi… không biết là tối nay có ông đến ăn tối. Ông Ackroyd không hề nói về chuyện này.”
Qua biểu cảm của cô, tôi thoáng cảm thấy hình như việc tôi đến ăn tối có khiến bản thân cô hơi phật lòng, nhưng tôi không lý giải được tại sao.
“Đầu gối cô sao rồi.” Tôi hỏi thăm.
“Vẫn như thế, cảm ơn bác sĩ. Giờ tôi phải đi rồi. Bà Ackroyd sẽ xuống nhà ngay thôi. Tôi… tôi chỉ ghé qua để kiểm tra xem mấy lọ hoa đã được chưa.”
Cô đi nhanh ra, để tôi lại một mình trong phòng. Tôi ra phía cửa sổ, trong đầu vẫn còn lấy làm lạ tại sao cô Russell lại phải phân trần sự hiện diện của cô ở đây làm gì. Ngay khi đó, tôi lại nhìn thấy một chi tiết nữa, (tất nhiên lần này tôi cũng chỉ vô tình để ý nó mà không hề có chủ đích đặc biệt nào), là những cửa sổ trong phòng đang được mở ra phía hè. Do đó tiếng động tôi nghe lúc nãy sẽ không thể là tiếng đóng cửa được.
Nhân lúc đang rảnh rỗi, và cũng muốn tâm trí tạm tránh xa những suy nghĩ chán chường, tôi tìm cách giải trí đầu óc bằng cách cố đoán xem âm thanh bí ẩn ấy là từ đâu.
Tiếng than cháy lách tách trong lò sưởi? Không, không giống kiểu âm thanh đó chút nào. Tiếng đóng ngăn kéo của bàn làm việc. Không, không phải tiếng đó.
Rồi mắt tôi bỗng bị hút vào một vật, mà nếu tôi không lầm thì người ta gọi đó là một chiếc tủ bạc, hình vuông, nắp mở phía trên đỉnh, và qua lớp kính ta có thể thấy những vật dụng trưng bày bên trong đó. Bước đến gần chiếc tủ để ngắm nhìn rõ hơn, tôi thấy bên trong là một vài vật dụng bằng bạc, một chiếc hài trẻ con thuộc về vua Charles Đệ Nhất, một số tượng ngọc Trung Quốc, cùng khá nhiều vật dụng và đồ cổ châu Phi. Do muốn xem qua một bức tượng ngọc, tôi nhấc cao nắp tủ, nhưng không may nó trượt khỏi đầu ngón tay tôi và chiếc nắp đóng sầm lại.
Ngay lập tức, tôi nhận ra âm thanh mình đã nghe trước lúc bước vào. Nó giống hệt tiếng người ta nhẹ nhàng cẩn thận đóng nắp chiếc tủ bạc. Đã tìm được đáp án cho thắc mắc từ nãy tới giờ, tôi thích chí đóng mở nắp một hai lần nữa. Rồi tôi mở hẳn nắp chiếc tủ để ngắm nhìn kỹ hơn những vật dụng trong đó.
Khi tôi đang cúi xuống mải mê ngắm bên trong chiếc tủ mở nắp thì Flora Ackroyd bước vào phòng.
Khá nhiều người không ưa Flora Ackroyd, nhưng gần như chẳng có ai lại không ngưỡng mộ cô. Và trong mắt bạn bè, cô là một người hấp dẫn. Ấn tượng mạnh mẽ đầu tiên của bất cứ ai khi lần đầu gặp Flora là một vẻ đẹp đến mức choáng ngợp. Cô sở hữu mái tóc vàng óng đúng chất vùng Scandinavia. Đôi mắt cô xanh biếc như nước biển vịnh Na Uy, sáng nổi bật trên làn da trắng hồng hào. Bờ vai Flora rộng và vuông vắn, và hông thon mảnh. Và đối với một bác sĩ đã chán ngấy những tấm thân bệnh tật thì được trông thấy một thân hình khỏe khoắn hoàn hảo như vậy giống như liều thuốc thoải mái tinh thần.
Một cô gái Anh điển hình từ đầu tới chân. (Có lẽ tôi hơi cổ hủ nhưng tôi nghĩ phẩm chất quý giá này thì khó ai có thể sánh bằng).
Flora cũng đến ngắm chiếc tủ bạc cùng tôi, và tỏ ra nghi ngờ liệu có đúng Vua Charles Đệ Nhất từng đi chiếc hài trẻ con đó không.
“Mà dù sao,” cô Flora tiếp tục, “tôi thấy thật ngớ ngẩn khi người ta cứ cao quý hóa những vật dụng gì đó chỉ vì một ông to bà lớn nào đấy đã từng mặc hoặc dùng qua. Bây giờ họ còn dùng
những thứ ấy nữa đâu. Ví như cây bút George Eliot từng dùng để viết tác phẩm The Mill on the Floss chẳng hạn, nói cho cùng thì đó cũng chỉ là một cây bút. Nếu ông thực sự yêu thích George Eliot, sao không mua lấy một cuốn The Mill on the Floss mà đọc, như thế có rẻ hơn không.”
“Tôi đoán là cô chẳng bao giờ đọc những thứ cổ điển hết thời ấy phải không cô Flora?”
“Ông nhầm rồi, bác sĩ Sheppard ạ. Tôi thích cuốn The Mill on the Floss vô cùng.”
Tôi cảm thấy vui vui khi nghe được điều ấy. Cứ nhìn những thứ mà phụ nữ trẻ ngày nay mê mẩn là tôi lại thấy sợ. “Bác sĩ vẫn chưa chúc mừng tôi.” Flora nói. “Ông chưa nghe tin gì sao?”
Nói đoạn cô giơ bàn tay trái lên, trên ngón áp út là một chiếc nhẫn ngọc trai được gia công hết sức tinh xảo.
“Tôi sắp cưới Ralph, ông biết rồi đấy.” Cô tiếp tục. “Bác rất rất vui về chuyện này. Ông thấy đó, sau đám cưới này thì tôi sẽ thực sự trở thành người trong nhà.”
Tôi nắm lấy cả hai bàn tay cô, nói hết sức thật lòng, “Cô gái yêu mến của tôi, tôi mong cô hạnh phúc.”
“Chúng tôi đã đính hôn được tầm một tháng rồi, nhưng đến hôm qua mới thông báo.” Flora tiếp tục bằng giọng hào hứng. “Bác sắp lên Cross-stones, và sẽ cho vợ chồng chúng tôi về đó sống, và chúng tôi sẽ giả vờ lập trang trại sinh sống ở đó. Chứ thực ra, hai chúng tôi sẽ đi săn cả mùa đông, đến mùa hội hè tiệc tùng thì lại xuống phố, rồi sau đó đi du thuyền. Tôi yêu biển.
Và tất nhiên, tôi chắc chắn rất hứng thú với các công chuyện trong giáo xứ, và tham dự đầy đủ các Cuộc họp của những bà Mẹ.”
Ngay lúc đó, bà Ackroyd hớt hải bước vào, miệng xin lỗi không ngớt vì xuống trễ.
Nói thế này thật không phải, nhưng thú thực là tôi chẳng ưa bà Ackroyd chút nào. Người bà rặt là xương với răng cùng đủ thứ trang sức vòng vèo đeo trên người. Một phụ nữ trông khó ưa nhất trần đời. Đôi mắt bà xanh lợt lạt, lạnh lẽo và nhỏ ti hí. Ngay cả những khi bà cố gắng làm ra vẻ hứng thú với câu chuyện gì đó bằng âm điệu cao vút giả lả, đôi mắt ấy vẫn chỉ phóng đi ánh nhìn dò xét lạnh lùng đến đối phương.
Tôi bước đến chào bà, để cô Flora lại một mình bên cửa sổ. Bà Ackroyd chìa bàn tay đủ loại xương xẩu và nhẫn về phía tôi, và miệng bắt đầu liến thoắng.
Nào là tôi đã nghe về lễ đính hôn chưa nhỉ? Thật là xứng đôi vừa lứa quá phải không? Đôi trẻ đã yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên đấy. Thật là một cặp đôi hoàn hảo, nam thật thanh mà nữ cũng thật tú.
“Bác Sĩ Sheppard yêu quý ạ, tôi không biết nói sao cho ông hiểu hết sự nhẹ nhõm trong lòng người mẹ này.”
Nói rồi bà Ackroyd buông tiếng thở phào, tỏ ý minh họa cho nỗi lòng người mẹ mà mình vừa đề cập, trong khi đôi mắt vẫn không quên xoáy vào tôi đăm đăm.
“Tôi có ý này không biết có phải là phiền quá không. Bởi ông là chỗ thân tình lâu năm của bác Roger yêu dấu nhà chúng tôi.
Chúng tôi biết là ông ấy coi trọng ý kiến của ông đến mức nào. Tôi dù sao cũng chỉ là một bà quả phụ của ông Cecil đáng thương, nên cũng khó ăn khó nói. Nhưng nay chúng tôi đang gặp chút chuyện, mấy thứ tài sản thừa kế ấy mà, ông cũng biết đấy. Tôi tin Roger chắc chắn sẽ để lại cho cháu Flora yêu quý chút tài sản, nhưng mà ông cũng biết đấy, ông ấy có phần hơi hơi chặt chẽ chuyện tiền bạc. Tôi đã có nghe đó cũng là chuyện hết sức bình thường của các ông trùm trong nghề thôi. Tôi tự hỏi, liệu ông có thể đề cập với ông ấy về chủ đề này không? Cháu Flora vốn rất quý ông. Mẹ con chúng tôi dù mới biết ông được hai năm nay nhưng đều coi ông là chỗ bạn bè thân thiết.”
Bài dỗ ngọt của bà Ackroyd bị cắt giữa chừng khi cánh cửa phòng tiếp khách mở ra lần nữa. Tôi mừng thầm vì đã cuối cùng cũng có người chen ngang. Bản tính tôi vốn ghét phải xen vào chuyện của người khác, và tất nhiên tôi chẳng dại mà đả động vấn đề thừa kế của Flora trước mặt Ackroyd. Giả mà không có ai xen vào, chắc tôi đã phải nói thẳng điều này với bà Ackroyd.
“Ngài chắc biết Thiếu tá Blunt phải không, bác sĩ?” “Vâng, sao lại không chứ!” Tôi đáp.
Rất nhiều người biết Hector Blunt, hay ít nhất cũng từng nghe danh ông một lần. Ông ta nổi tiếng vì tài săn bắn ở những nơi điều kiện khắc nghiệt, và bộ sưu tập thú rừng ông hạ gục được tôi tin có lẽ khó ai sánh bằng. Khi ai đó nhắc đến ông ấy, mọi người sẽ đáp: “Blunt? Có phải cái ông chuyên săn thú lớn không?”
Tình bạn giữa hai con người hoàn toàn khác biệt như Blunt và
Ackroyd luôn khiến tôi khó hiểu. Hector Blunt có lẽ trẻ hơn Ackroyd tầm năm tuổi và cả hai kết bạn từ hồi còn trẻ. Dù cuộc sống sau này có đẩy hai người trôi dạt xa nhau, nhưng tình bạn ấy vẫn luôn vững bền theo thời gian. Cứ khoảng hai năm một lần, Blunt lại dành nửa tháng ở Fernly, và minh chứng cho tình bạn vĩnh cửu giữa hai người chính là chiếc đầu thú khổng lồ và dàn sừng vĩ đại trưng ở cửa chính đủ khiến ai bước qua cũng phải ngước nhìn sững sờ.
Blunt bước vào phòng, dáng đi riêng biệt, thoải mái, nhưng vẫn nhẹ nhàng, ông ta cao tầm thước, người tráng kiện, và khá chắc nịch. Gương mặt ông sạm đến mức tưởng như bị bầm, và đặc biệt các nét trên đó luôn đanh lại không chút biểu cảm. Đôi mắt xám của ông khiến người ta tưởng như ông lúc nào cũng đang nhìn về nơi nào đó rất xa xăm. Ông rất kiệm lời, và nếu có mở miệng thì cũng chỉ nói nhát gừng, như thể những chữ ấy bất đắc dĩ bị ép rơi ra khỏi miệng ông vậy.
Thấy tôi, ông cất tiếng chào bằng kiểu giật cục thường thấy: “Ông khỏe chứ, Sheppard?” Chẳng đợi đối phương đáp lại, ông bước thẳng đến trước lò sưởi và giương đôi mắt mơ màng nhìn xuyên qua chúng tôi, như thể ông mới bắt gặp điều gì đó hay ho đang xảy ra tại xứ Timbuctoo ở Tây Phi xa xôi.
“Thiếu tá Blunt, tôi đang mong được nghe ngài kể về những chuyện ở Châu Phi. Tôi chắc là ngài biết hết tất cả mọi thứ ở đó.” Tôi từng nghe người ta kể Hector Blunt là kẻ ghét phụ nữ, nhưng tôi lấy làm lạ trước thái độ sốt sắng của ông khi ra đứng cùng Flora bên chiếc bàn tủ bạc. Cả hai người họ cùng cúi xuống
chiếc tủ.
E là bà Ackroyd sẽ lại bắt đầu nói về chuyện thừa kế, tôi vội lôi vụ giống đậu mới đọc trên tờ Daily Mail sáng nay ra bình phẩm. Bà Ackroyd dĩ nhiên chẳng có chút ý niệm gì về chuyện làm vườn, tuy vậy bà ta vẫn thích làm ra vẻ mình biết tuốt, và rằng bà cũng có đọc tờ Daily Mail. Chúng tôi chuyện trò khá sôi nổi cho đến khi Ackroyd và viên thư ký cùng vào phòng, và ngay sau đó ông Parker thông báo bữa tối bắt đầu.
Vào bàn, tôi được sắp xếp ngồi giữa bà Ackroyd và cô Flora. Blunt ngồi phía tay bên kia của bà Ackroyd, rồi đến Geourey Raymond ngồi cạnh ông ấy.
Bữa tối không được vui vẻ lắm. Ackroyd tỏ rõ vẻ thất thần. Nhìn ông vô cùng khốn khổ và gần như chẳng ăn được gì. Rút cục bà Ackroyd, Raymond và tôi đành cố giữ nhịp trò chuyện suốt tối. Flora dường như cũng bị tâm trạng sầu não của ông bác làm cho ảnh hưởng, còn Blunt lại trở về thói lầm lì thường thấy.
Ngay sau bữa tối, Ackroyd vòng tay qua cánh tay tôi và đưa tôi sang phòng làm việc của ông ấy.
“Sau khi cà phê được bưng lên, chúng ta sẽ không bị làm phiền lần nữa.” Ông giải thích. “Tôi đã dặn Raymond canh chừng không cho ai quấy rầy chúng ta nói chuyện.” Tôi bí mật thăm dò điệu bộ cử chỉ của Ackroyd. Rõ ràng ông ta đang chịu kích động tinh thần dữ dội. Ông ta cứ đi đi lại lại trong phòng, cho đến khi Parker bước vào với khay cà phê trên tay, ông chủ biệt thự này mới ngồi phịch xuống, thả người lọt thỏm trong chiếc ghế bành trước lò sưởi.
Không gian căn phòng làm việc rất dễ chịu. Một bên bức tường được các giá sách kê kín. Ghế ngồi cỡ lớn và bọc da xanh sậm. Bên cửa sổ là chiếc bàn giấy rộng với đủ loại giấy tờ được phân loại và sắp xếp gọn gàng trên đó. Trong phòng còn có thêm một chiếc bàn tròn để tạp chí và báo thể thao.
“Dạo gần đây cứ sau bữa ăn là tôi bị cơn đau dạ dày hành hạ, bữa nào cũng vậy.” Ackroyd bình thản nói khi tự tay lấy cho mình một tách cà phê. “Tôi cần ông kê thêm cho tôi mấy loại thuốc của ông.”
Nhận ra Ackroyd đang muốn đóng kịch với màn thăm khám sức khỏe này, tôi cũng tung hứng theo, “Tôi cũng cho là thế. Tôi có đem một ít theo đây.”
“Tốt lắm. Ông đưa tôi luôn đi.”
“Tôi để trong cặp ngoài sảnh rồi. Để tôi ra lấy.”
Ackroyd ngăn lại, “Không cần phiền thế. Parker sẽ đi lấy. Anh lấy cặp của bác sĩ giúp tôi được không?”
“Tôi lấy ngay đây, thưa ngài.”
Đợi Parker rút ra ngoài, tôi toan mở miệng nói thì Ackroyd giơ tay lên, “Chưa đâu. Đợi đã. Ông không thấy tôi bây giờ vẫn chưa kịp hoàn hồn được đây sao?”
Dĩ nhiên tôi thấy rõ điều ấy, nhưng trong lòng bắt đầu cảm thấy bứt rứt không yên, đầu dồn dập không biết bao nhiêu suy đoán.
Tuy vậy Ackroyd tiếp tục ngay sau đó, “Ông có thể kiểm tra lại xem cửa sổ kia đã đóng kín chưa, được không?”
Hơi ngạc nhiên nhưng tôi vẫn đứng dậy và đi về phía cửa sổ. Riêng cánh cửa này không phải là dạng cửa đẩy, mà là loại trượt thông thường. Cặp rèm nhung xanh đã đóng, nhưng phần trên cửa vẫn còn mở.
Trong khi tôi còn đang loay hoay bên cửa, thì Parker đã bước vào với chiếc cặp trong tay.
“Ổn rồi.” Tôi nói, đoạn bước vào giữa phòng.
“Ông đã cài then chưa?”
“Rồi, rồi. Có chuyện gì với ông vậy, Ackroyd?”
Lúc này Parker đã ra khỏi phòng và đóng cửa, nếu không tôi đã chẳng vào chuyện ngay như thế.
Ackroyd im lặng một lúc mới cất tiếng trả lời, “Tôi đang sống trong địa ngục.” Ông chậm rãi. “Không, không cần để tâm đến mấy cái thứ thuốc chết tiệt đó đâu. Tôi chỉ nói thế cho Parker nghe thôi. Đám gia nhân rất hay tọc mạch. Lại đây ngồi đi. Cửa phòng cũng đã đóng rồi phải không?”
“Đóng rồi. Không ai nghe lỏm được đâu. Đừng lo lắng quá như thế.”
“Sheppard, không ai biết được tôi đã trải qua những gì trong hai tư tiếng đồng hồ qua đâu. Tôi cảm thấy như tất cả những gì mình có đã tan tành thành tro bụi. Chuyện này của Ralph chỉ là giọt nước làm tràn ly thôi. Nhưng chúng ta sẽ không bàn việc đó bây giờ. Vấn đề nằm ở chỗ khác, hoàn toàn khác! Tôi chẳng biết làm gì bây giờ. Mà tôi phải sớm đưa ra quyết định.”
“Chuyện rắc rối đó là gì vậy?”
Ackroyd lặng đi vài phút. Tôi cảm thấy dường như ông ấy đang chọn lựa từng chữ để bắt đầu câu chuyện. Đến khi ông ấy chịu mở miệng, thì đó lại là một câu hỏi hết sức bất ngờ, hoàn toàn nằm ngoài dự tính của tôi.
“Sheppard, ông đã chăm sóc bệnh tình cho Ashley Ferrars trước khi ông ấy chết đúng không?”
“Đúng vậy.”
Ackroyd lại khó nhọc chọn lọc câu chữ cho câu hỏi thứ hai, “Ông có bao giờ nghi ngờ, hay chỉ thoáng nghĩ rằng… rằng ông ấy có thể đã bị đầu độc không?”
Đến lượt tôi lặng người mất một lúc. Cuối cùng, sau khi đã quyết định được những lời mình sẽ nói, tôi mới lên tiếng. Dù sao Roger Ackroyd cũng không phải là Caroline.
“Tôi sẽ thành thật với ông. Trước đây tôi không hề mảy may nghi ngờ gì, nhưng kể từ khi… trong một lần hai chị em tôi ngồi nói chuyện với nhau, chỉ rặt những thứ trên trời dưới đất thôi, thế rồi chị ấy vô tình đề cập đến chuyện này, từ đó tôi mới bắt đầu suy nghĩ về khả năng đầu độc. Đầu óc tôi đến giờ vẫn chưa dứt ra được. Nhưng cũng phải nhắc ông luôn đây chỉ là nghi ngờ không có cơ sở.”
“Ông ấy đúng là bị đầu độc.” Ackroyd nói, giọng não nề. “Ai làm cơ?” Tôi kinh ngạc.
“Vợ của ông ấy.”
“Làm sao ông biết?”
“Chính bà ấy nói với tôi.”
“Khi nào?”
“Hôm qua! Chúa tôi! Mới hôm qua đây thôi! Mà cứ như cả thập kỷ đã trôi qua vậy.”
Tôi kiên nhẫn chờ đợi Ackroyd tiếp tục, “Ông phải hiểu chuyện này, Sheppard, những gì tôi đang nói với ông là bí mật. Không ai ngoài chúng ta được biết cả. Tôi cần lời khuyên của ông, một mình tôi không đủ sức chống trả nổi cú sốc này. Như tôi mới nói đấy, tôi chẳng biết nên làm gì.”
“Ông có thể kể lại đầu đuôi câu chuyện cho tôi được không?” Tôi nói. “Tôi vẫn chưa hiểu ất giáp gì. Vì cớ gì mà bà Ferrars lại thú nhận với ông?”
“Là thế này, ba tháng trước tôi có hỏi cưới bà Ferrars, nhưng bà ấy từ chối. Sau đó tôi cầu hôn lần nữa và bà ấy ưng thuận, nhưng lại không cho phép tôi công bố rộng rãi lễ đính hôn này, mà phải đợi đến khi bà ấy đoạn tang chồng xong. Hôm qua tôi có nhắc bà ấy rằng đến nay đã một năm ba tuần kể từ khi chồng bà ấy qua đời, vậy nên không còn điều gì cản trở chúng tôi công bố rộng rãi lễ đính hôn này nữa. Mấy ngày nay tôi cũng có để ý thấy bà Ferrars cư xử hết sức kỳ lạ. Thế rồi bỗng dưng, ngay lúc đó, bà ấy bỗng khóc òa lên. Bà Ferrars, bà ấy nói hết mọi chuyện với tôi. Về nỗi căm thù người chồng vũ phu của bà ấy, tình yêu ngày một lớn của bà ấy dành cho tôi, và cả… và hành động khủng khiếp mà bà ấy đã làm. Đầu độc! Trời ơi! Một vụ giết người máu lạnh.”
Tôi nhìn thấy vẻ ghê tởm pha lẫn kinh hãi hiện rõ trên gương mặt của Ackroyd. Và như vậy tức là bà Ferrars hẳn cũng đã nhìn
thấy phản ứng này. Ackroyd không phải là kiểu người tình vĩ đại, sẵn sàng tha thứ tất cả vì tình yêu. Dù sao đi nữa, ông ấy cũng thuộc mẫu người sống có phép tắc. Với tất cả những phẩm chất đứng đắn, lương thiện và khuôn phép ấy, chắc chắn ông đã hoàn toàn quay lưng với bà Ferrars ngay từ giây phút sự thật ấy được tiết lộ.
“Phải.” Ackroyd tiếp tục, bằng giọng trầm đều. “Bà ấy đã thú thực hết mọi chuyện. Và hình như đã có ai đó cũng nắm được chân tướng sự việc này và tìm mọi cách đe dọa tống tiền bà ấy với cái giá khổng lồ. Vì bị bức ép quá mức mà bà ấy đã như hóa điên hóa dại.”
“Hắn ta là ai vậy?” Tôi hỏi.
Vừa dứt lời, trước mắt tôi chợt hiện ra hình ảnh khi Ralph Paton và bà Ferrars cùng sóng bước. Đầu hai người kề sát. Tim tôi chợt run lên vì sợ hãi. Có lẽ nào… trời ơi! Nhưng không thể như thế được. Tôi nhớ lại lối cư xử thẳng thắn bộc trực của Ralph khi chào tôi, mới chiều nay đây thôi. Thật ngớ ngẩn!
“Bà ấy không chịu nói tên của hắn ta cho tôi biết.” Ackroyd vẫn chậm rãi nói. “Mà thực ra, bà ấy không nói đó là đàn ông. Nhưng tất nhiên…”
“Tất nhiên làm những việc như thế thì phải là đàn ông rồi.” Tôi đồng tình. “Ông không nghi ngờ bất cứ ai sao?” Thay cho câu trả lời, Ackroyd chỉ rên lên một tiếng và gục đầu xuống hai bàn tay.
“Không thể thế được.” Ông ta lầm bầm. “Chỉ nghĩ đến thôi là tôi muốn phát điên rồi. Không, tôi không thể nói với ông cái ý
nghĩ nghi ngờ điên rồ đã lóe ra trong đầu tôi khi ấy. Nhưng tôi sẽ nói ông hay điều này. Có đôi chỗ trong lời bà ấy nói khiến tôi tin rằng kẻ đó có thể đang ở cùng tôi dưới một mái nhà này đây… nhưng không thể như vậy được. Hẳn tôi đã hiểu sai lời bà ấy nói.”
“Ông đã nói gì với bà Ferrars?” Tôi hỏi.
“Tôi còn nói được gì nữa? Tất nhiên là bà ấy đã chứng kiến toàn bộ nỗi kinh hoàng hiện trên mặt tôi. Và rồi còn vấn đề nữa, đó là trách nhiệm của tôi trong vụ này. Ông cũng thấy rồi đấy, bà ấy đã biến tôi thành kẻ đồng lõa sau khi kể ra sự thật này. Tôi dám cá là bà ấy đã trù tính tất cả những điều này trước cả tôi. Tôi choáng váng cả đầu óc, bác sĩ ạ. Bà ấy còn van xin tôi cho bà ấy hai mươi tư tiếng, và buộc tôi hứa là từ giờ đến lúc đó không được làm gì cả, và vẫn nhất quyết không cho tôi biết tên của kẻ vô lại đã hăm dọa tống tiền bà ấy. Có lẽ Ferrars lo sợ là tôi sẽ đến thẳng đó và nện cho hắn một trận, mà như thế khác nào như đổ thêm dầu vào lửa. Bà ấy còn cam đoan với tôi là tôi sẽ sớm nghe tin báo từ bà ấy trong vòng chưa đầy hai mươi tư giờ. Trời ơi! Tôi thề với ông, Sheppard, tôi không hề nghĩ là bà ấy định làm chuyện dại dột như thế. Tự vẫn! Và chính tôi là kẻ đã đẩy bà ấy đến bước đường đó.”
“Không, không.” Tôi vội trấn an. “Đừng suy diễn vô lý lên như thế. Ông hoàn toàn không có lỗi gì trong cái chết của bà Ferrars.” “Vấn đề bây giờ là tôi sẽ phải làm gì đây? Người phụ nữ đáng thương ấy đã chết. Thế còn cần đào bới lại chuyện cũ nữa làm gì?”
“Tôi cũng cho là vậy.” Tôi tán thành.
“Nhưng vẫn còn một vấn đề nữa. Làm thế nào để tôi lần ra được tên vô lại đã đẩy bà ấy đến chỗ chết? Hắn hành hạ Ferrars như vậy cũng chẳng khác nào giết chết bà ấy. Hắn từ đầu đã biết được tội ác này, và lập tức bám vào đó để giở trò trục lợi bẩn thỉu. Bà ấy đã phải trả giá cho những gì mình làm. Lẽ nào hắn lại được ung dung sống đến cuối đời hay sao?”
“Tôi hiểu.” Tôi từ tốn. “Ý ông muốn truy lùng hắn bằng được? Như thế sẽ chẳng khác nào bứt một sợi dây mà động cả rừng đấy.”
“Đúng vậy, tôi cũng đã nghĩ đến điều này. Trong đầu tôi cũng đã suy đi tính lại bao lần rồi.”
“Tôi đồng ý với ông là kẻ thủ ác phải bị trừng phạt, nhưng chúng ta cũng phải cẩn trọng tính toán đến những hệ lụy đi kèm nữa.”
Ackroyd đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng, rồi lại nhanh chóng ngồi xuống chiếc ghế bành.
“Thế này đi Sheppard, cứ tạm để nguyên tình hình như thế này. Nếu quả thực không thấy lời nhắn nào của bà ấy, thì chúng ta sẽ để tất cả những chuyện không hay này yên nghỉ. ”
“Ông nói lời nhắn của bà ấy như thế là ý gì?” Tôi tò mò. “Không hiểu sao linh tính tôi cứ mách bảo rằng bà ấy chắc chắn có để lại cho tôi một lời nhắn, ở đâu đó hoặc bằng cách nào đó, trước khi ra đi. Tôi không thể lý giải được, nhưng chắc chắn là có.”
Tôi lắc đầu, hỏi, “Nhưng bà ấy đâu có để lại thư từ hay bất cứ
lời nhắn gì?”
“Sheppard, tôi chắc như đinh đóng cột là bà ấy có làm vậy. Mà chưa hết, tôi có linh cảm là bà ấy đã chủ động chọn lấy cái chết để bóc trần toàn bộ chuyện này ra ánh sáng, giống như một cách trả thù kẻ đã đẩy bà ấy vào tuyệt vọng vậy. Tôi tin là nếu mình có thể gặp bà ấy khi đó, hẳn bà ấy sẽ nói cho tôi biết tên của hắn và yêu cầu tôi dốc hết sức mà cho hắn một trận.”
Rồi Ackroyd nhìn thẳng vào mắt tôi, “Ông không tin vào linh cảm sao?”
“Ồ có chứ, tôi tin, theo một mức độ nào đó thì có. Nếu quả đúng là có lời nhắn từ bà ấy, như ông đã nói thế…” Tôi chững lại. Cánh cửa phòng mở êm ru không một tiếng động và Parker bước vào, trên tay là một chiếc khay có vài bức thư trên đó.
“Thư cho buổi tối, thưa ngài.” Ông ta nói rồi trao khay cho Ackroyd.
Trước khi rút êm, ông quản gia còn kịp thu dọn các tách cà phê đã dùng xong.
Sau một hồi lơ đãng tâm trí vì mải quan sát Parker, tôi quay trở về với Ackroyd. Nhưng lúc này trông ông ta như bị hóa đá, mắt dán chặt vào một phong thư xanh dài, tay chợt buông thõng khiến những lá thư còn lại rơi xuống sàn. Ông ta run rẩy thì thầm, “Là chữ của bà ấy. Chắc chắn đêm qua bà ấy đã ra ngoài và gửi nó, ngay trước khi… trước khi…”
Không kịp nói nốt câu, Ackroyd vội xé phong bì thư và rút ra một xấp giấy dày. Ông ngẩng phắt lên, “Ông chắc là đã đóng cửa sổ chưa?”
“Chắc chắn.” Tôi ngạc nhiên. “Sao vậy?”
“Cả buổi tối hôm nay tôi có cảm giác rất lạ là mình đang bị theo dõi rình mò. Cái gì vậy…”
Ackroyd quay ngoắt lại. Tôi cũng quay theo. Cả hai đều có cảm tưởng đã nghe thấy âm thanh phát ra từ then cửa, rất khẽ. Tôi bước thẳng ra và mở hẳn cửa. Không có ai ngoài đó.
“Thần hồn át thần tính.” Ackroyd lẩm bẩm một mình. Ông mở tập giấy dày trên tay, và khẽ đọc lên:
Roger yêu dấu của em,
Giết người là phải đền mạng. Em hiểu được điều ấy, em đã nhìn thấy câu nói này hằn rõ trên gương mặt anh chiều nay. Nên em quyết định sẽ chọn cánh cửa duy nhất còn mở ra cho em. Việc trừng phạt kẻ đã đày đọa cuộc sống của em như địa ngục trần gian suốt một năm qua, em đành để lại cho anh. Em đã không thể nói tên kẻ đó cho anh biết chiều nay, nhưng em quyết định sẽ nói cho anh ngay bây giờ. Em không có con cái hay họ hàng thân thích nào để phải lo lắng, vậy nên anh đừng sợ công khai toàn bộ câu chuyện này cho dư luận biết. Em chỉ mong anh, Roger, Roger yêu dấu hết mực của em, có thể tha thứ cho những lầm lỗi mà em đã bắt anh phải gánh chịu, khi chuyện đã ra cơ sự này, em rốt cuộc lại không thể tự mình chống chọi…
Ackroyd vuốt ngón tay lên tờ giấy để lật sang trang tiếp, và chợt ngưng bặt.
“Sheppard, thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi phải đọc bức thư này một mình.” Giọng ông ta run rẩy. “Bức thư này viết chỉ cho riêng mình tôi đọc, chỉ tôi đọc mà thôi.”
Nói đoạn ông đút lá thư vào trong phong bì và đặt lên trên bàn.
“Hãy để nó sau, khi tôi còn một mình.”
“Ấy đừng,” tôi hấp tấp thốt lên, “đọc nó bây giờ đi.” Ackroyd nhìn tôi chằm chằm, thoáng chút ngạc nhiên. “Xin ông thứ lỗi.”
Tôi đỏ mặt. “Ý tôi không phải là đọc thư lên cho tôi nghe. Mà là hãy đọc nó khi tôi còn ở đây.”
Ackroyd lắc đầu.
“Không, tôi đợi thì hơn.”
Nhưng không hiểu vì sao, trời xui đất khiến thế nào, tôi lại tiếp tục thúc giục, “Ít nhất hãy đọc đến đến tên của kẻ đó.” Giờ thì ông Ackroyd tỏ ra cực kỳ kiên quyết. Càng thúc ông ta làm gì, ông ấy càng quyết liệt chống đối. Tất cả những lý lẽ của tôi đều vô ích.
Bức thư đến tay ông ấy được mười phút thì tôi bước ra, để ông bạn lại một mình. Lúc này đồng hồ đã chỉ chín giờ kém mười, và bức thư vẫn chưa được đọc hết. Ngập ngừng đặt tay lên tay cầm cánh cửa, tôi ngoái nhìn lại và thầm hỏi liệu mình còn điều gì đáng ra phải làm nhưng tôi chưa thực hiện hay không. Sau một hồi chẳng nghĩ thêm được điều gì, tôi đành lắc đầu đi ra, đóng cánh cửa lại phía sau lưng mình.
Parker xuất hiện ngay gần đó làm tôi giật nảy. Nhìn vẻ mặt luống cuống xấu hổ của ông ta, tôi nghi ngay gã quản gia này đã nghe trộm sau cánh cửa nãy giờ.
Gương mặt ông ta béo múp, bóng nhẫy và bảnh chọe, và hiện rõ trong ánh mắt của ông ta có điều gì đó rất gian xảo. Tôi lạnh lùng, “Ông Ackroyd đặc biệt không muốn bị quấy rầy lúc này. Ông ấy có bảo tôi dặn anh như vậy.”
“Chắc chắn, thưa ngài. Tôi… tôi tưởng mình nghe thấy tiếng chuông gọi.”
Lời nói dối rành rành. Tôi chẳng buồn đáp lại. Dẫn tôi ra đại sảnh, Parker giúp tôi khoác áo ngoài, và mở cửa thả tôi vào giữa màn đêm tịch mịch. Trăng đã bị mây che khuất, để mặc bóng tối bao trùm lên vạn vật xung quanh.
Chiếc đồng hồ lớn trên tháp nhà thờ làng điểm đúng chín giờ khi tôi bước qua gác canh ở cổng lớn. Tôi rẽ trái đi về phía làng và suýt nữa đâm sầm vào người đàn ông đang đi theo hướng ngược lại.
“Đi lối này đến Biệt thự Fernly phải không ông?” Gã lạ mặt hỏi bằng giọng khàn đục.
Tôi nhìn anh ta. Đầu anh ta đội sùm sụp chiếc mũ che khuất đôi mắt, và cổ áo thì dựng lên. Tôi gần như chẳng nhìn được rõ mặt, nhưng hình như anh ta còn trẻ, cách nói năng có phần cộc cằn và thô lỗ.
“Cổng gác canh vào ngay đây.” Tôi đáp.
“Cám ơn ông.” Anh ta ngập ngừng một chút, rồi nói như có ý giải thích thêm, dù rõ ràng không cần thiết. “Tôi không quen
khu này lắm, ông cũng thấy đấy.”
Đoạn anh ta bước tiếp, bỏ tôi đứng lại nhìn theo đến khi anh ta mất hút sau cánh cổng lớn.
Thật kỳ lạ, giọng nói của anh ta gợi nhắc tôi đến giọng của ai đó mà tôi nghĩ mãi không ra.
Mười phút sau tôi về đến nhà. Caroline hết sức hiếu kỳ khi thấy tôi có mặt ở nhà sớm như vậy. Tôi đành phải bịa ra một sự cố nào đó đã xảy ra tối hôm nay để lấp liếm cho chị ấy vừa lòng, nhưng tôi vẫn có cảm giác gượng gạo như thể đang bị chị ấy soi thấu bằng cái kính hiển vi trong đầu chị.
Đồng hồ điểm mười giờ, tôi đứng dậy, vươn vai ngáp, và đề nghị đi ngủ. Caroline đồng ý.
Hôm đó là thứ Sáu, và như mọi khi, buổi tối tôi lên giờ đồng hồ trong khi Caroline đích thân đi kiểm tra xem gia nhân trong nhà đã khóa chốt nhà bếp đến nơi đến chốn chưa.
Đến mười giờ mười lăm, hai chị em bắt đầu lên lầu về phòng. Tôi vừa mới đặt chân lên bậc cuối cầu thang thì điện thoại dưới sảnh reo.
“Có khi bà Bates gặp chuyện.” Caroline lập tức suy đoán. ‘‘Em e là thế.” Tôi rầu rĩ đáp.
Tôi chạy xuống cầu thang và nghe máy, “Cái gì cơ?” Tôi nói. “Cái gì? Tất nhiên, tôi đến ngay lập tức.”
Dập máy. Tôi lao ngược lên lầu, vơ lấy cặp, nhét vội ít quần áo ngoài vào, rồi vừa chạy vừa hét lên với Caroline.
“Parker gọi. Từ Fernly. Họ mới phát hiện ra ông Roger Ackroyd
bị giết.”