Sau trận mưa hôm đó, tôi phát sốt li bì suốt ba ngày trời. Ngự y ra vào thăm khám đều đặn như đi chợ, thuốc thang, cháo nóng, đồ ăn tẩm bổ chất đầy cả phòng, đến nỗi tôi chỉ muốn… ốm thêm vài ngày nữa cho được chiều chuộng mãi như thế này.
Nhưng không hiểu sao, dù thân thể được chăm chút đến đâu, lòng tôi vẫn cứ trống trải lạ thường. Mỗi đêm, khi sốt đã dịu, tôi nằm mơ màng, nửa mê nửa tỉnh… cứ cảm giác như có ai đó khẽ bước vào phòng, đứng bên giường rất lâu, rồi lại rời đi trong yên lặng.
Tôi hỏi mấy tì nữ, thì ai nấy đều lắc đầu chắc nịch: “Không có ai vào cả.”
Lòng tôi chợt thoáng ngờ… hay là Yến Trác?
Ý nghĩ ấy khiến tim tôi khẽ rung lên. Lòng thầm khấp khởi. Giữa một nơi xa lạ, chí ít cũng còn có một người thật lòng quan tâm đến tôi. Nhưng rồi lại lo ngay sau đó: nhỡ hắn bị Nhật Khánh phát hiện thì khó mà toàn mạng rời khỏi phủ được. Tôi nghiến răng, tự nhủ thầm: “Không được manh động!”
Dù sao thì… Nhật Khánh cũng cả tháng nay chẳng thèm bước chân vào phòng tôi lấy một lần. Không nhìn, không hỏi, không một câu nhắn gửi.
Nghĩ đến đó, tôi khẽ thở dài, rồi kéo chăn trùm kín đầu. Cả căn phòng tẩm đầy mùi thuốc và hơi người vắng lặng, ngột ngạt như một nhà giam bằng gấm lụa.
Bởi vậy nên vừa khi hơi đỡ bệnh một chút, tôi lập tức sai tì nữ đưa đi dạo. Nằm một chỗ mãi ngứa ngáy cả người. Đi chơi quen chân rồi, giờ phải nằm bẹp trong phòng mấy ngày liền, tôi cứ có cảm giác như mình sắp… mọc rễ đến nơi.
Giữa phố chợ Hoa Lư, tôi đội nón thấp che ngang mặt, ríu rít cùng hai tì nữ dạo bước giữa phố phường. Phiên chợ thời này tuy chưa thể sánh với Đông Kinh phồn hoa hay Thăng Long trù phú, nhưng cũng đã mang dáng dấp của một kinh đô khởi phát. Hai bên đường, hàng quán chen nhau san sát, người bán rao vang, kẻ mua tấp nập. Hương bánh nếp mới hấp còn bốc khói quyện cùng mùi trà mạn ấm thoảng trong không khí lành lạnh của một buổi chiều mưa phùn, khiến lòng người cũng theo đó dịu lại.
Không khí náo nhiệt mà lòng tôi hôm nay lại tĩnh lặng lạ kỳ, như có một dự cảm nào đó. Bỗng một tràng vó ngựa dồn dập vọng lại từ phía cuối phố khiến tôi giật mình ngoái lại. Tiếng vó giày đều đều như tiếng trống vang, xé tan màn mưa bụi lất phất.
Là đội tuần tra của cấm vệ quân.
Người dẫn đầu cưỡi bạch mã, mặc giáp bạc bóng lưỡng, dáng người vững chãi hiên ngang. Khi băng ngang qua chúng tôi, hắn bất chợt ghì cương chậm lại. Gió lùa bay nhẹ tấm màn che trên nón tôi, để lộ nửa gương mặt.
Tôi và hắn chạm mắt.
Là Yến Trác.
Một khoảnh khắc lặng im trôi qua, tưởng chừng dài như cả một kiếp người.
Dù chỉ là một cái chạm mắt thoáng qua, mà trái tim tôi như bị ai siết lại. Cảm giác ấy không phải của riêng tôi, tôi biết, đó là… ký ức còn vương trong máu thịt Phất Kim, đang len lỏi sống lại trong tim Minh Nguyệt.
Và rồi, như một cơn sóng ngầm vỡ bờ, những mảnh vỡ ký ức vụn vặt ùa về, dội thẳng vào lòng tôi.
Tôi thấy mình, hay đúng hơn là thấy Phất Kim, vào năm mười ba tuổi, bận một tấm áo lụa trắng tung bay giữa vườn hoa sau phủ Tướng Quân. Có một thiếu niên tuấn tú, tay cầm sáo trúc, đang đứng dưới gốc cây nhìn nàng mỉm cười.
“Anh Trác… anh nói nếu em ngoan ngoãn học nữ công, mai này sẽ cưới em về làm vợ, có còn nhớ không?”
“Nhớ!" - chàng bật cười, giọng trầm mà dịu dàng như gió xuân - “Nhưng em phải giữ lời, không được dỗi anh chỉ vì anh không dẫn đi câu cá.”
“Anh hứa đi!"
“Anh hứa!"
Nụ cười năm xưa của thiếu niên ấy, như một vệt sáng rực rỡ cuối chân trời, dẫu chỉ tồn tại trong một thoáng ngắn ngủi… nhưng đến tận bây giờ, trái tim này vẫn chưa từng quên.
Tôi cắn chặt môi, ngăn mình không ngẩng lên nhìn nữa. Nhưng dù có thế nào, cái cảm giác xao động đến tận sâu thẳm ấy… vẫn như một vết nứt nhỏ âm thầm lan rộng trong trái tim tôi.
Yến Trác không nói gì, chỉ hơi gật đầu chào theo lễ quân thần, nhưng ánh mắt lại ánh lên thứ cảm xúc phức tạp đến khó tả, pha giữa thương nhớ, u uẩn và cả một chút… giận hờn.
Tôi giật mình, định cúi đầu tránh đi thì không ngờ… bước chân lại vướng vào gấu váy.
Cả người tôi chao đảo vì vội bước lùi, đúng lúc phía sau là bậc đá trơn trượt. Một tiếng “Á!” bật ra chưa kịp dứt thì tôi đã ngã nhào về phía trước.
Theo phản xạ, một cánh tay mạnh mẽ vươn ra đỡ lấy tôi. Nhưng vì cuống quá, tay tôi lại quờ loạn vào… đúng cái đai lưng buộc giáp của hắn.
“Rắc!”
Một âm thanh thảm họa vang lên.
Không hiểu tôi vung tay thế nào mà móc ngay vào cái móc cài thắt lưng, giật mạnh một cú khiến cả khúc đai quấn lỏng tuột xuống, áo giáp thì không rơi, nhưng khố lót phía trong lại tụt lệch, khiến chàng một bên lưng lộ thiên ngay giữa phố chợ đông người!
Tôi chết đứng.
Yến Trác cũng chết đứng.
Cả hai nhìn nhau, mặt tái dần rồi chuyển sang đỏ như mặt trời sắp lặn.
Hai tì nữ đứng cạnh thì trợn tròn mắt. Một người hốt hoảng kéo áo tôi che bớt chỗ hở sau cú ngã, người còn lại lao đến… định kéo đai giáp cho Yến Trác nhưng lại sợ mạo phạm, tay giơ ra lại rụt vào, mặt mũi khổ sở không biết nên phải giúp làm sao.
Một lão già bán kẹo kéo gần đó ho khan một tiếng, bẽn lẽn quay mặt đi, lũ trẻ con thì cười khúc khích, còn đám đàn bà lắm chuyện lại bắt đầu có cớ mà rì rầm:
"Ối giời đất ơi… thị vệ gì mà để vương phi xé cả y phục!"
"Nhìn cái dáng ngã kìa, cứ như nhào vào lòng người tình ấy nhể!"
Tôi vội vàng quay lưng, cố níu lấy vạt áo mà che, miệng lí nhí:
“Ta chỉ… trượt chân… không cố ý…”
Yến Trác lúc này cũng đã vội kéo lại đai lưng, chỉnh lại giáp trụ, mặt nghiêm như tượng gỗ, nhưng vành tai đỏ bừng, đến cổ cũng ửng hồng. Hắn cố hắng giọng, nghiêm nghị nói:
“Vương phi nên về nghỉ sớm, tránh gió… Kinh đô nhiều tai mắt, e bị dị nghị.”
Tôi cúi gằm mặt, kéo tì nữ bỏ đi trong bộ dạng chật vật chưa từng thấy.
Sau lưng, tiếng dân chợ vẫn râm ran vang lại:
“Chà chà, thời buổi nay xem chừng lắm chuyện lạ… Vương phi vấp ngã mà cũng kéo được cả đai giáp của thị vệ, cũng tài thật!”
Còn tôi thì chỉ muốn có cái hố dưới chân mà chui xuống ngay lập tức…
***
Khi tôi về đến phủ thì trời đã ngả xế chiều. Gió đầu mùa đông se se lạnh, mà lưng tôi lại rịn mồ hôi, không phải vì lạnh, mà vì "căng thẳng".
Tin đồn ở chợ Hoa Lư lan nhanh như cỏ cháy. Dân kinh kỳ cái miệng còn vang hơn cả trống điểm canh. Tôi chỉ vừa đặt chân vào nội viện chưa đầy khắc, đã thấy mấy tì nữ chạy lăng xăng, vẻ mặt hoảng hốt như có ai vừa đập bàn trong thư phòng.
Tôi còn chưa kịp hỏi chuyện thì một người trong bọn họ len lén ghé tai tôi thì thầm:
“Vương gia… đã biết chuyện ở chợ rồi.”
Tôi nuốt khan, cổ họng khô đắng như tro bụi.
Chẳng phải vì tôi thấy mình làm sai. Nhưng mà… cái cảnh tượng ấy, một vương phi rách áo, thị vệ để lộ eo, cả hai đỏ mặt mà né ánh mắt nhau... đúng là dù có trăm cái miệng cũng khó mà phân trần.
Vừa bước vào phòng, đã thấy Nhật Khánh ngồi đó. Một tháng nay hắn chưa từng bước vào phòng tôi một lần, giờ bỗng nhiên hắn xuất hiện hẳn phải có biến lớn. Không ai gọi, hắn cũng không lên tiếng. Đèn chưa thắp, rèm chưa buông, trong ánh hoàng hôn tắt lịm, bóng hắn kéo dài như một dải u sầu bất động.
Tôi khựng lại, tay siết chặt vạt áo.
Hắn chẳng buồn nhìn tôi, chỉ lạnh nhạt hỏi:
“Hôm nay đi chợ vui không?”
Giọng hắn không cao không thấp, nhưng từng chữ rơi xuống như kim châm vào da thịt.
Tôi mím môi, cố giữ vẻ thản nhiên:
“Cũng không đến nỗi… chỉ là suýt vấp một cú.”
“Ừ! Vấp đến mức rách cả áo, lôi luôn cả đai giáp thị vệ người ta.”
Hắn quay lại, ánh mắt như có thể đông cứng cả một trận mưa rào. Hắn không hề hằn học, không phải nét ghen tuông, mà là tỉnh bơ đến đáng sợ. Khuôn mặt hắn lạnh tanh như thể tôi là một món hàng mới hỏng mất góc, không còn giá trị trưng bày.
Tôi cắn môi, cố tìm giọng nói bình tĩnh nhất:
“Chỉ là tai nạn. Nếu chàng không tin, thiếp cũng không có cách nào khác để chứng minh.”
“Phải. Ta không tin.”
Giọng hắn khàn khàn, sắc như dao cạo:
“Vương phi vừa mới khỏi bệnh, đã vội vã khoác áo mỏng đi dạo phố. Trượt chân đúng lúc Yến Trác đi ngang. Vừa hay túm trúng thắt lưng hắn. Cũng vừa hay người ngoài đồn thổi khắp phố chợ. Hay thật!”
Tôi bỗng bật cười, nhưng là nụ cười chua chát:
“Nếu Tướng công nghi ngờ thiếp như thế, thì lẽ nào thiếp phải đến từng nhà dân trong chợ mà thanh minh sao? Hay là nên treo cổ trước cổng thành để chứng tỏ mình trong sạch?”
Ánh mắt hắn lóe lên một tia tức giận, rồi nhanh chóng lùi lại sau một lớp băng lạnh thường trực. Hắn không nói nữa, chỉ đứng dậy, quay lưng bỏ đi.
Trước khi bước ra khỏi cửa, hắn để lại một câu khiến tôi ngồi như chết trân tại chỗ:
“Từ hôm nay, phu nhân không cần ra ngoài nữa. Nếu không đủ thể diện làm vợ ta, thì cứ ở yên trong phủ.”