Thám tử Hercule Poirot

Chương 22: Chương 22


trước sau

Bị xô đẩy tứ phía, tránh va phải vào cái lưng, cái vai vội vàng, nhào lộn, bị chèn ép, Hercule Poirot cay đắng nghĩ thế gian quá đông người. Dù sao lúc sáu giờ chiều thì Londres chật ních những người. Ngột ngạt, bụi mù, mùi khó chịu và những bàn tay, ở đâu cũng thấy những bàn tay! Hơn nữa, nhân loại khi nhìn cả đám thì không có gì là hấp dẫn cả. Ít khi nhìn thấy một ngôi làng nổi bật về mặt trí thức, một phụ nữ ăn vận một cách nhã nhặn. Họ đan áo ở cả những nơi ít lích sự nhất, mắt trống rỗng, những ngón tay run rẩy.

Với vẻ ủ ê, Poirot nhìn những người đàn bà trẻ xung quanh: họ đều giống nhau, không duyên dáng và thiếu nữ tính. A! Nhìn một người phụ nữ xinh đẹp, dí dỏm… một người phụ nữ có những đường cong quí phái, ăn vận một vẻ kiểu cách… Ngày xưa người ta thường gặp họ, nhưng bây giờ…Tầu điện ngầm đỗ lại. Mọi người chạy ùa ra và đẩy Poirot đứng trước những mũi kim đan, những người khác thì lên tàu và dồn ép anh vào phía trong một lần nữa. Tàu lại chạy với những cái lắc rất mạnh. Poirot bị ném vào một bà to béo đang mang rất nhiều túi xách, “Xin lỗi”. Nhưng cạnh sườn anh lại đập vào cạnh một chiếc va-li. “Xin lỗi”. Anh cảm thấy bộ ria của mình bị cụp xuống một cách thảm hại. May thay, tàu đã dừng ở ga anh xuống.Một làn sóng người đưa anh tới cầu thang tự động anh đã có chỗ đặt chân và nhất định không chịu để mất.Thật là sung sướng khi thoát khỏi cái nơi quỉ quái ấy để lên mặt đất! Kể cả khi tay phải xách một chiếc va-li nặng.Có ai đó gọi tên anh. Ngạc nhiên, anh ngước mắt lên. Trên chiếc thang tự động bên cạnh đang đi xuống, anh thấy lại một hình bóng cũ. Một người đàn bà rực rỡ, tóc hung, đội một chiếc mũ rơm trang trí bằng những con chim và những chiếc lông nhiều màu sắc.Bà ta há to miệng được trang điểm rất khéo:- Đúng là ông ấy rồi. Ô! Ông thân mến! Khi nào thì chúng ta gặp nhau?Nhưng định mệnh khắc nghiệt là hai chiếc cầu thang tự động đi ngược chiều nhau. Hercule Poirot đi lên còn nữ bá tước Vera Rossakoff lại đi xuống.Hercule Poirot quay lại, cúi xuống và vẫy tay.- Ô! Bà thân mến! Tôi có thể tìm bà ở đâu? – Anh thất vọng kêu to.Câu trả lời của bà ta như chìm sâu vào lòng đất. Tuy vậy lúc này cũng rất rõ ràng:- Dưới địa ngục!Hercule Poirot nhắm mắt một lúc. Sau đó anh lảo đảo. Anh không thấy là mình đã lên mặt đường. Việc lên lên, xuống xuống của mọi người vẫn diễn ra bên cạnh anh. Bên cầu thang đi xuống như đưa người ta xuống địa ngục! Đó là cách giải thích câu trả lời của bà bá tước. Poirot lại dùng cầu thang đi xuống. Nhưng dưới chân cầu thang không có dấu vết gì của bà ta. Bà ta đi đâu? Tới Bakerloo hay là Piccadilly? Đám đông vẫn giữ mật độ như cũ, nhưng vẫn không thấy bóng dáng cùa người bạn Nga, nữ bá tước Vera Rossakoff của anh.Mệt mỏi và buồn rầu, Poirot lên tàu để về Piccadilly Circus. Anh về tới nhà trong sự bối rối.Số phận muốn rằng những người đàn ông ngăn nắp và tầm vóc nhỏ bé thường bị những người phụ nữ ngông cuồng quyến rũ. Poirot không thể xóa bỏ được ảnh hưởng sự quyến rũ của bà bá tước đối với anh. Hai mươi mốt năm qua anh không gặp lại bà ta, nhưng ảnh hưởng đó vẫn còn. Sự trang điểm của người phụ nữ ấy lúc này gợi lên hình ảnh mặt trời đã ngả bóng, nhưng đối với Hercule Poirot thì bà ta vẫn là người phụ nữ đầy ấn tượng. Và cái cách ăn cắp đồ trang sức khéo léo của bà ta! Anh nhớ lại vẻ trơ trẽn khi bà ta nhận mình là thủ phạm. Một triệu phụ nữ thì chỉ có một người như vậy! Anh đã tìm ra bà ta nhưng rồi lại mất.“Xuống địa ngục!”. Đúng, anh không nhầm. Bà ta đã nói như vậy… Bà ta nói về hệ thống tàu điện ngầm của Londres ư? Hay phải hiểu nó theo nghĩa tôn giáo. Nếu cho rằng cách sống của bà ta khi chết đi đáng phải hỏa thiêu dưới địa ngục thì với sự lịch lãm Nga, sự tế nhị sơ đẳng bà ta cũng không thể nói rằng ở đấy đã giành chỗ cho Poirot.Không, chắc chắn là bà ta nói về một chuyện khác. Một người phụ nữ không tinh ý! Người khác thì họ đã nói tới khách sạn Ritz hoặc khách sạn Claridge, nhưng Vera Rossakoff lại nói xuống địa ngục!Poirot thở dài nhưng chưa chịu nhận là đã thất bại. Trong khi lúng túng, anh tìm con đường đơn giản nhất và sáng mai anh sẽ hỏi bà Lemon, người nữ thư ký của mình.- Bà Lemon, tôi có thể đặt ra cho bà một câu hỏi được không?- Chắc chắn là được, thưa ông – Người thư ký tay ngừng gõ vào bàn phím máy chữ và nói.- Nếu một ông hoặc bà bạn của bà nói sẽ tìm họ dưới địa ngục thì bà sẽ làm thế nào?Không ngập ngừng, bà Lemon nói ngay:- Trong trường hợp ấy, tốt nhất là tôi sẽ gọi điện thoại đến để giành một bàn – Bà ta trả lời.Hercule Poirot ngạc nhiên nhìn bà:- Bà… sẽ… gọi điện… để… giữ… một bàn ư? – Anh nhắc lại.Bà Lemon gật đầu khẳng định:- Tối nay ư? Bà ta nhấc máy điện thoại và bấm số: “Allo! Số máy 14578 đấy ư? Xuống địa ngục, đúng không? Yêu cầu giành riêng một bàn cho hai người. Văn phòng của ông Hercule Poirot đây. Mười một giờ”.Bà thư ký gác máy và lại làm tiếp công việc bỏ dở của mình.Hercule Poirot cần những lời giải thích.- Địa ngục ấy thế nào? – Anh hỏi.Bà ta ngạc nhiên:- Ô! Ông không biết ư? Đây là một nhà hàng rất được ưa chuộng mới mở. Do một bà người Nga nào đấy quản lý, tôi cho là như vậy. Chiều nay tôi có thể lấy cho ông một thẻ ra vào nhà hàng, rất dễ.Không muốn nói gì thêm nữa, bà Lemon tiếp tục đánh máy.*Ngay tối hôm ấy, vào lúc mười một giờ, Hercule Poirot bước qua ngưỡng cửa, ở bên trên có một tấm biển có đen nê-ông ghi tên nhà hàng. Một người vận bộ đò màu đỏ ra đón và cởi áo khoác cho anh rồi chỉ tay vào chiếc cầu thang dẫn xuống tầng hầm. Trên mỗi bậc đều có những dòng chữ:Tôi rất muốnTha thứ và làm lại.Tôi có thể dừng chân nếu tôi muốn…Bậc cuối của cầu thang là một cây cầu như một chiếc tàu thủy trên một bể nước có rất nhiều hoa loa kèn màu đỏ.Poirot đi qua cầu. Bên trái là một cái hang bằng đá hoa cương trong đó có một con chó xấu xí lông đen và rất to lớn. Anh chưa bao giờ nhìn thấy một con chó như vậy. Con chó ngồi thẳng người và tuyệt đối bất động. Có thể không phải là chó thật, Poirot hy vọng như vậy. Nhưng bất chợt nó sủa lên những tiếng ghê rợn. Gần đấy có một chiếc giỏ con đựng đầy bánh bích-quy của chó. Trên mỗi miếng bánh đều có giòng chữ “Phần thưởng cho Cerbere”( ). Con chó nhìn chằm chằm vào giỏ bánh rồi lại sủa nữa. Poirot lấy bánh ném cho nó. Con vật há chiếc mõm to lớn và đớp lấy miếng bánh. Cerbere đã nhận phần thưởng và Poirot tiếp tục đi.Căn phòng mà anh đặt chân vào không lớn lắm. Phòng có những chiếc bàn nhỏ, một sàn khiêu vũ và được thắp sáng bằng những bóng đèn màu đỏ. Những mô hình con quỉ đuôi dài, sừng nhọn dựng xung quanh hàng rào.- A! Ông đã tới rồi.Nữ bá tước Rossakoff ăn mặc lộng lẫy vội vàng đến trước mặt anh và giơ tay.- … Rất thân, ông bạn rất thân, tôi rất vui khi thấy ông tới đây! Sau nhiều năm! Bao nhiêu nhỉ? Không, đừng nói. Đối với tôi thì đó là hôm qua. Trông ông không thay đổi chút nào cả.- Bà cũng vậy, bà thân mến – Poirot đáp lại và cúi xuống hôn tay người phụ nữ.- Đã hai chục năm rồi. Một sự sụp đổ, nhưng rất ngoạn mục. Bà ta đưa Poirot đến chiếc bành đã giành sẵn cho hai người.- Ông bạn Hercule Poirot nổi tiếng của tôi – Bà ta nói – Nỗi kinh hoàng của những kẻ bất lương! Tôi rất sợ ông, tôi cũng vậy, ngày xưa… Nhưng bây giờ tôi đang sống một cuộc sống khá tẻ nhạt! Đây là giáo sư Liskeard – Bà ta nói tiếp và giới thiệu một người đứng tuổi, cao lớn và gày gò – Ông ấy biết mọi chuyện trong quá khứ và chính ông là người giúp tôi trang trí căn phòng này.Nhà khảo cổ học khẽ rùng mình.- Nếu biết trước ý định của bà thì kết quả sẽ… đáng chán hơn nữa.Trên tường Orphee đang chỉ huy dàn nhạc trong lúc Eurydice đang nhìn người này với vẻ hy vọng. Đằng trước Osiris nhìn những bong bóng nước có những người trẻ tuổi khỏa thân( ).- Xứ sở của tuổi trẻ – Bà bá tước giải thích và không đổi giọng bà ta nói thêm: - Đây là Alice bé nhỏ của tôi.Poirot cúi đầu chào một cô gái vẻ nghiêm nghị đeo kính gọng đồi mồi.- … Cô gái rất thông minh. Đây là một nhà tâm lý học có bằng cấp. Cô ta biết tại sao những người điên lại điên! Có rất nhiều lý do, hình như thế. Tôi thấy rất kỳ lạ.Cô gái nở một nụ cười đáng mến nhưng có phần kiêu ngạo. Bằng một giọng dứt khoát cô ta hỏi ông giáo sư có muốn khiêu vũ không. Được khen ngợi nhưng ông giáo sư vẫn có vẻ khó chịu:- Thưa cô, tôi chỉ biết nhảy điệu valse thôi.- Đây là valse – Alice bình tĩnh đáp.Họ đứng lên và bước ra sàn nhảy. Kết quả không mấy thích thú.Nữ bá tước Rossakoff thở dài:- Tuy nhiên cô ta cũng không đến nỗi xấu lắm.- Cô gái không thể sử dụng những cái mình vốn có.- Thời xưa người ta phải cố gắng lắm mới có thể hài lòng với công việc. Alice đã viết nhiều bộ sách nói về quan hệ giữa người và người, nhưng liệu có ai mời cô ta đi nghỉ cuối tuần ở Brighton? A! Khi tôi còn trẻ trung…- Thưa bà, con trai bà hiện nay ra sao rồi?Poirot muốn dùng danh từ “thằng bé” nhưng anh chợt nhớ rằng đã hai chục năm qua rồi.Nét mặt của người phụ nữ rạng lên.- Nó đã lớn, vai rộng, rất đẹp trai. Nó đang ở bên Mỹ. Ở đó nó xây dựng cầu, khách sạn, kho hàng, đường sắt, tất cả những gì mà người Mỹ muốn.Poirot ngạc nhiên:- Anh ta là kỹ sư hay kiến trúc sư?- Không quan trọng! Nó rất đáng mến. Nó chỉ nói về sắt thép, sức bền vật liệu. Tôi không hiểu gì về những cái đó. Nhưng chúng tôi rất yêu quí nó. Tôi cũng yêu quí Alice. Chúng nó là vợ chồng chưa cưới. Chúng gặp nhau trên một chuyến máy bay, hoặc tàu thủy hoặc xe lửa gì đó và chúng yêu nhau. Chúng đều là những người lao động. Khi Alice đến Londres tôi giữ nó ở đây.Bà bá tước lấy tay ôm lấy bộ ngực lép kẹp của mình.- Các con yêu nhau, ta cũng yêu các con. Tại sao con lại để nó ở Mỹ, tôi nói với Alice như vậy. nó bảo nó đang viết một cuốn sách. Tôi không hiểu rõ nội dung của sách. Nhưng tôi thường bảo nó phải biết tha thứ. Ông bạn, ông nghĩ như thế nào về việc làm ăn của tôi ở đây?- Trí tưởng tượng thật phong phú và rất đẹp.Căn phòng đã đông người. Những bộ y phục buổi tối cùng với những bộ y phục thành thị phóng đãng.- Ở đây chúng tôi có tất cả những thứ cần thiết, đúng không? Cánh cửa của Địa ngục luôn rộng mở.- Trừ người nghèo chứ?Bà bá tước cười:- Người giàu thì khó lên Thiên đàng, đúng không? Họ phải được ưu tiên xuống địa ngục chứ!Ông giáo sư và Alice đã trở về chỗ. Bà bá tước đứng lên.- Xin lỗi. Tôi có chút việc với Aristide, người quản lý.Bà ta trao đổi một vài câu gì đó với người quản lý sau đó đi nói chuyện với khách hàng.Ông giáo sư lấy khăn tay lau trán, uống một cốc rượu rồi cũng bỏ đi. Poirot ngồi lại với cô Alice nghiêm nghị. Cô ta không xấu nhưng rất khó chịu.- Tôi chỉ biết tên của cô thôi – Anh nói.- Giáo sư Alice Cunningham – Cô ta đáp – Ông đã quen bà Vera từ bao giờ?- Đã hai chục năm rồi.- Nghiên cứu về bà ấy là việc làm thú vị. Tất nhiêntôi quí mến bà ấy không chỉ do đây là mẹ của người chồng tương lai của tôi mà còn do yêu cầu của nghề nghiệp nữa.- Thế ư?- Tôi đang viết một cuốn sách nói về tâm lý học tội phạm. Cuộc sống ban đêm ở đây có nhiều điều đáng nói. Chúng tôi tiếp nhiều khách hàng là những kẻ tội phạm các loại. Tôi đã nói chuyện với họ. Ông đã biết những hành động tội phạm của bà Vera… Tôi muốn nói về những vụ trộm cắp trước đây của bà ta…- Ừ… phải… đúng thế – Poirot trả lời vẻ choáng váng.- Tôi gọi đây là sự phức tạp của chứng ăn cắp vặt. Bà ta chỉ thích những gì sáng lấp lánh. Không phải là bạc. Bao giờ cũng là đồ trang sức. Tôi phát hiện ra thời thơ ấu bà ta rất sung sướng. Bà ta đã có một cuộc sống buồn tẻ và không nguy hiểm. Bà ta đã gây ra một bi kịch để mình bị trừng phạt. Như vậy cần phải tìm căn nguyên của thói trộm cắp. Bà ta muốn tìm sự nổi danh để rồi bị trừng phạt.- Tôi nghi ngờ chuyện bà ấy đã có một cuộc sống buồn tẻ và được che chở với ý nghĩa như một quí tộc ở Nga trong thời kỳ cách mạng – Poirot cải chính.Cặp mắt xanh sáng của cô Cunningham ánh lên một tia thích thú:- A! Bà ta đã cho ông biết chuyện này sao?- Không nghi ngờ rằng bà ta đã là người quí phái – Poirot nói mà không để cập đến sự dối trá của người phụ nữ này.- Mỗi người đều tin vào cái mà mình muốn tin – Cunningham nói.Poirot cảm thấy buồn phiền. xã hội của bà bá tước làm anh hài lòng ở chỗ bà ta thuộc dòng dõi quí phái đồng thời cũng không muốn làm phật lòng cô gái đeo kính là giáo sư tâm lý học.- Cô có biết tôi ngạc nhiên về ai không? – Anh hỏi.Thay vì trả lời Alice Cunningham chỉ phác ra một cử chỉ có vẻ như độ lượng.- Tôi rất ngạc nhiên về cô, còn trẻ và có thể là đẹp nếu cô biết tự chăm sóc. Cô tới đây khi nhiệt độ xuống hai mươi độ dưới không, ăn vận như đi chơi gôn. Cô có chiếc mũi đỏ bóng lên nhưng cô không đánh phấn. Môi cô tô son một cách cẩu thả! Cô là một phụ nữ nhưng cô không biết là như vậy. Nhưng tại sao? Thật đáng tiếc.Một lát sau anh hài lòng khi thấy Alice Cunningham trở về là con người. Một tia giận dữ bùng lên trong đôi mắt của cô. Nhưng ngay lập tức cô ta lấy lại vẻ tươi cười khinh thường.- Ông Poirot, tôi có cảm giác là ông quên mất ý thức hệ hiện đại. Cái cơ bản không phải là ở sự trang điểm.Một chàng trai bảnh bao đang nhìn cô ta.- Đây là một mẫu người rất thú vị – Alice lẩm bẩm – Anh ta tên là Paul Varesco! Anh ta sống bằng tiền bao của phụ nữ. Anh ta sống một cách trơ trẽn. Tôi đã nghe anh ta kể chuyện một người vú em đã nuôi anh ta từ năm anh ta lên ba tuổi.Hai phút sau Alice đã trong vòng tay của chàng trai ấy. Họ nhảy một cách tuyệt vời. Khi họ đến bên bàn, Poirot nghe thấy cô gái nói: “Sau mùa hè ở Bagnor, bà ta đã cho anh một con sếu nhỏ bằng vàng, đúng không?”. Một con sếu, phải, thật ý nghĩa.Rồi anh thấy một cái gì đó xua đuổi ý nghĩ của anh về Alice. Một người đàn ông trẻ, tóc vàng, mặc quần áo buổi chiều ngồi bên chiếc bàn trước mặt Poirot. Bên cạnh anh ta là một “cô gái thân mến”. Dù cho ai đó có nói anh ta là “một kẻ lười biếng có nhiều tiền” nhưng anh ta không lười biếng và cũng không có nhiều tiền. Đây là thám tử Charles Stevens và chắc chắn anh ta đang làm nhiệm vụ của mình.*Sáng hôm sau, tới thăm người bạn cũ là thanh tra Japp ở Scotland Yard.Sự đón tiếp của người này khiến anh ngạc nhiên.- Cáo già! – Japp kêu lên – Tôi tự hỏi tại sao ông lại chui vào cái hang ổ ấy!- Nhưng tôi không biêt gì cả, xin cam đoan với ông… không biết gì cả!Japp không tin và nói không úp mở.- Ông muốn điều tra về cái Địa ngục ấy ư? Vẻ bề ngoài nó cũng giống như mọi hộp đêm khác. Nhưng nó vẫn đứng vững. Chắc kinh doanh khá vì những khoản phải chi rất lớn. Về công khai thì một phụ nữ người Nga làm chủ. Người ta nói đây là một nữ bá tước, tôi không hiểu tại sao…- Tôi biết nữ bá tước Vera Rossakoff – Poirot nói – Chúng tôi là bạn cũ của nhau.- Nhưng đây chỉ là sự mượn tên. Bà ta không có tiền. Có thể tên quản lý Aristide Papopolous là người thu tiền lãi. Tôi không chắc chắn lắm. Tóm lại chúng ta chưa biết ai là người nằm trong chăn.- Và các ông đã cử thanh tra Stevens đi điều tra vụ này ư?- A! Ông đã thấy Stevens! Cáo già!- Anh ta đi tìm cái gì?- Ma túy. Một vụ buôn lậu lớn. Không thanh toán bằng tiền mà bằng đá quý.- A!- Chuyện như thế này. Bà Cachin, hoặc nữ hầu tước Chose, không có tiền mặt nhưng có đồ trang sức do gia đình để lại. Một hôm bà ta đến gặp một nhà chuyên môn để lau chùi lại. Người này tháo những viên dá quý trên đồ trang sức ra và thay vào đó bằng những viên đá giả. Bà Machin không hay biết gì. Đây là việc bảo trì bình thường, không phải là ăn cắp, không có tiếng kêu ca, không có gì cả. Sớm hay muộn người ta sẽ phát hiện ra một vài món trang sức nào đó là của giả và bà Machin là vô tội và thất vọng. Không lúc nào bà ta rời chuỗi hạt khỏi cổ! Và các cảnh sát khốn khổ của chúng ta đi theo dõi những cô hầu phòng, những viên quản lý đáng nghi ngờ… Chúng tôi đã phát hiện ra tất cả bọn họ đều nghiện ma túy. Nhưng vẫn còn câu hỏi số ma túy đó ở đâu ra?- Và các ông cho rằng ở hộp đêm Xuống Địa ngục ư?- Đúng, đây có thể là đại bản doanh. Chúng tôi cũng tìm thấy ma túy ở một cửa hiệu kim hoàn của một người tên là Paul Varesco… Tôi thấy hình như ông biết tên này, đúng không?- Tôi đã gặp anh ta ở hộp đêm Xuống địa ngục.- Đây là cái địa ngục mà tôi muốn biết. Đây là nơi tập trung của những kẻ bất lương. Nhưng phụ nữ ở đây rất xinh dẹp. Hộp đêm và hiệu kim hoàn có liên hệ với nhau. Tôi cho rằng hiệu kim hoàn là của hộp đêm. Đây là nơi lý tưởng cho mọi người ra vào, cả những phụ nữ xinh đẹp, cả những tên trộm cướp.- Ông cho rằng đây là nơi trao đổi ma túy – đồ trang sức ư?- Đúng. Tôi cho rằng người phụ nữ Nga ấy phụ trách việc đổi chác. Nhưng chúng tôi không có chứng cứ. Cách đây một vài tuần lễ chúng tôi thấy Varesco mang đá quí tới hộp đêm. Stevens đi theo dõi nhưng chúng không có cuộc trao đổi nào cả. Khi Varesco ra khỏi nơi này, chúng tôi đã bắt giữ và khám người hắn: không có viên đá quí nào trên người hắn. Người ta tới hộp đêm để khám, kết quả: không có đá quí, không có ma túy!- Thất bại, đúng không?- Như ông nói. Nhưng không phải là thất bại hoàn toàn. Cũng trong cuộc khám xét ấy chúng tôi đã tóm cổ được tên Peverel, kẻ giết người ở Battersea. Người ta nói hắn đã sang Ecosse, nhưng thực ra hắn ẩn náu ở đây.- Có thể có một nơi trú ẩn ở những gian nhà phụ.- Cái đó thì có thể. Nhưng người ta đã lục soát tất cả mà không thấy gì. Nhưng, nói riêng với nhau thôi, một trong những người của chúng tôi đến tận nơi và chút nữa thì bị con chó ấy vồ.- Con Cerbere ư?- Đúng. Cái tên rất tinh quái! Nói xem ông Poirot, nếu ông muốn có dịp may. Vụ này cũng rất xứng đáng. Nhất là ma túy! 


trước sau
Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!